Page 46 - mudoso72
P. 46
46 Muõ Ñoû 72
chốn cho cuộc huyết chiến, giao tranh. Nhưng cũng không hẳn như trên đã
kể, bởi cuộc hành quân nầy tự khởi đầu được trù định theo yêu cầu chiến
lược của phía Mỹ: Chính phủ Mỹ thiết kế chiến lược và quân Nam là nhân
tố thực hiện chiến thuật.
Từ phòng tuyến Khe Sanh, đại quân Miền Nam được tổ chức nên thành
ba lực lượng tấn công chính với ba hướng tiến quân, lấy đường số 9 làm
địa giới trung tâm khu vực trách nhiệm. Giai đoạn thứ nhất của cuộc hành
quân khai diễn đúng ngày 8 tháng 2. Hai Tiểu Đoàn 39, 21 và Bộ Chỉ Huy
Liên Đoàn I Biệt Động; Tiểu Đoàn 2, 3 Dù và Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn III
Dù do Đại Tá Nguyễn Văn Thọ chỉ huy được trực thăng vận xuống chiếm
đóng, thiết lập, trấn giữ những căn cứ hỏa lực từ bắc xuống nam, tả ngạn
sông Tchépone, nơi các cao điểm được đặt tên: Ranger North (39BĐQ);
Ranger South (21BĐQ); Căn cứ hỏa lực 31 (TĐ3ND); Căn cứ hỏa lực 30
(TĐ2ND) để bảo vệ mặt bắc trục tiến quân trung phong trên Đường số
9. Từ căn cứ Hàm Nghi, đông Khe Sanh, Lữ Đoàn I Thiết Kỵ (đặt thuộc
quyền hành quân Bộ Tư Lệnh SĐ Dù) có Tiểu Đoàn 8 Dù tùng thiết theo
đường bộ tiến tới Bản Đông, tên quân sự: Căn cứ A Lưới, do Tiểu Đoàn 9
và pháo binh Dù thiết lập căn cứ hỏa lực; Căn cứ Béta (Bravo), hay Bắc
Bình do Tiểu Đoàn 1 Dù (sau nầy tăng cường TĐ7Dù), bộ chỉ huy Lữ
Đoàn I Dù chỉ huy tổng quát cánh quân nầỵ
Sư Đoàn I Bộ Binh chịu trách nhiệm cánh quân mặt nam Đường 9, hữu
ngạn sông Tchépone, trực thăng vận các tiểu đoàn cơ hữu vào vùng, thiết
lập các căn cứ hỏa lực Hotel, Don, Delta và Delta1 để bảo vệ cạnh sườn
trục tiến quân trung tâm mà chủ yếu để nhịp tiến quân của Lữ Đoàn I Thiết
Kỵ và Lữ đoàn I Dù đến đúng mục tiêu Tchépone như đã dự liệụ. Sư Đoàn
Thủy Quân Lục Chiến làm thành phần trừ bị ở giai đoạn nầỵ
Tướng Abrams đã thay thế Tướng Westmoreland từ giữa năm 1968, và bắt
đầu áp dụng chiến thuật “Chiếm và Giữ” thay vì “Lùng và Diệt” của West-
moreland. Với chiến thuật mới, Abrams chỉ cần khai triển những đơn vị
tương đối nhỏ (không tập trung quân vào những chiến dịch lớn với những
đại đơn vị, như kỳ người tiền nhiệm) và quan trọng hơn hết là chuẩn bị
những đợt rút quân từ tháng 6 năm 1969, với những đơn vị vùng châu thổ
sông Cửu Long, nơi được đánh giá là tình hình an ninh tương đối ỗn định,
cụ thể trong Mậu Thân 1968, không có thành phố, tỉnh lỵ nào bị cộng sản
chiếm cứ và gây tác động tổn thất lớn như ở Huế, Sài Gòn. Ngày 8 tháng
6, 1969 kế hoạch rút 25.000 quân chính thức được công bố với đơn vị đầu
tiên, Sư Đoàn 9 Bộ Binh rời khỏi Căn Cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho. Tiếp theo,
29 tháng 9, quân số Mỹ ở Thái Lan rút đi 6000 ngườị Ngày 9 tháng 10,
Nhöõng ngöôøi vôï lính - Vaän nöôùc, phaän ngöôøi
chốn cho cuộc huyết chiến, giao tranh. Nhưng cũng không hẳn như trên đã
kể, bởi cuộc hành quân nầy tự khởi đầu được trù định theo yêu cầu chiến
lược của phía Mỹ: Chính phủ Mỹ thiết kế chiến lược và quân Nam là nhân
tố thực hiện chiến thuật.
Từ phòng tuyến Khe Sanh, đại quân Miền Nam được tổ chức nên thành
ba lực lượng tấn công chính với ba hướng tiến quân, lấy đường số 9 làm
địa giới trung tâm khu vực trách nhiệm. Giai đoạn thứ nhất của cuộc hành
quân khai diễn đúng ngày 8 tháng 2. Hai Tiểu Đoàn 39, 21 và Bộ Chỉ Huy
Liên Đoàn I Biệt Động; Tiểu Đoàn 2, 3 Dù và Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn III
Dù do Đại Tá Nguyễn Văn Thọ chỉ huy được trực thăng vận xuống chiếm
đóng, thiết lập, trấn giữ những căn cứ hỏa lực từ bắc xuống nam, tả ngạn
sông Tchépone, nơi các cao điểm được đặt tên: Ranger North (39BĐQ);
Ranger South (21BĐQ); Căn cứ hỏa lực 31 (TĐ3ND); Căn cứ hỏa lực 30
(TĐ2ND) để bảo vệ mặt bắc trục tiến quân trung phong trên Đường số
9. Từ căn cứ Hàm Nghi, đông Khe Sanh, Lữ Đoàn I Thiết Kỵ (đặt thuộc
quyền hành quân Bộ Tư Lệnh SĐ Dù) có Tiểu Đoàn 8 Dù tùng thiết theo
đường bộ tiến tới Bản Đông, tên quân sự: Căn cứ A Lưới, do Tiểu Đoàn 9
và pháo binh Dù thiết lập căn cứ hỏa lực; Căn cứ Béta (Bravo), hay Bắc
Bình do Tiểu Đoàn 1 Dù (sau nầy tăng cường TĐ7Dù), bộ chỉ huy Lữ
Đoàn I Dù chỉ huy tổng quát cánh quân nầỵ
Sư Đoàn I Bộ Binh chịu trách nhiệm cánh quân mặt nam Đường 9, hữu
ngạn sông Tchépone, trực thăng vận các tiểu đoàn cơ hữu vào vùng, thiết
lập các căn cứ hỏa lực Hotel, Don, Delta và Delta1 để bảo vệ cạnh sườn
trục tiến quân trung tâm mà chủ yếu để nhịp tiến quân của Lữ Đoàn I Thiết
Kỵ và Lữ đoàn I Dù đến đúng mục tiêu Tchépone như đã dự liệụ. Sư Đoàn
Thủy Quân Lục Chiến làm thành phần trừ bị ở giai đoạn nầỵ
Tướng Abrams đã thay thế Tướng Westmoreland từ giữa năm 1968, và bắt
đầu áp dụng chiến thuật “Chiếm và Giữ” thay vì “Lùng và Diệt” của West-
moreland. Với chiến thuật mới, Abrams chỉ cần khai triển những đơn vị
tương đối nhỏ (không tập trung quân vào những chiến dịch lớn với những
đại đơn vị, như kỳ người tiền nhiệm) và quan trọng hơn hết là chuẩn bị
những đợt rút quân từ tháng 6 năm 1969, với những đơn vị vùng châu thổ
sông Cửu Long, nơi được đánh giá là tình hình an ninh tương đối ỗn định,
cụ thể trong Mậu Thân 1968, không có thành phố, tỉnh lỵ nào bị cộng sản
chiếm cứ và gây tác động tổn thất lớn như ở Huế, Sài Gòn. Ngày 8 tháng
6, 1969 kế hoạch rút 25.000 quân chính thức được công bố với đơn vị đầu
tiên, Sư Đoàn 9 Bộ Binh rời khỏi Căn Cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho. Tiếp theo,
29 tháng 9, quân số Mỹ ở Thái Lan rút đi 6000 ngườị Ngày 9 tháng 10,
Nhöõng ngöôøi vôï lính - Vaän nöôùc, phaän ngöôøi