Có Một Binh Chủng Nhảy Dù Bị Lãng Quên
The Forgotten South Vietnamese Airborne
By Barry R. McCaffrey
August 8, 2017
Lời nói đầu:
Vào năm 1993, trong quyển tự truyện “It Doesn’t Take a Hero”, Đại
Tướng Norman H. Schwazkopf đã dành nguyên một chương để viết về
cảm nghĩ, thời gian ông phục vụ trong Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam;
Năm 1995, tác giả Michael Martin (Command Sergeant) xuất bản quyển
Angles in Red Hats: Paratroopers of the Second Indochina War, gồm
nhiều hình ảnh và bài viết của các cựu cố vấn Hoa Kỳ phục
vụ trong Sư Đoàn Nhảy Dù; Năm 2009, Đại Tá hồi hưu Robert L.
Tonsetic viết quyển “Forsaken Warriors: The Story of an American
Advisor who Fought with the South Vietnamese Rangers and Airborne, về
những kỷ niệm thời chinh chiến, phục vụ trong vai trò cố vấn
với hai binh chủng này, Tiểu Đoàn 42 và 44 BĐQ, và Tiểu Đoàn 2
Dù; Đến năm 2012, Đại tá hồi hưu Mike McDermott viết quyển sách
“True Faith and Allegiance: An American Paratrooper and the 1972 Battle
for An Loc”, về thời gian ông có mặt với Tiểu Đoàn 5 Dù trong
trận đánh An Lộc; Vào tháng 5 năm 2014, Thiếu Tá hồi hưu John J.
Duffy viết tập thơ “The Battle for ‘Charlie”, về trận đánh Đồi
Charlie của Tiểu Đoàn 11 Dù; Cuối năm 2014, Đại Úy Gary N. Willis
phi công Hoa Kỳ, từng bay biệt phái cho Sư Đoàn Nhảy Dù viết
quyển “Red Markers, Close Air Support for the Vietnamese Airborne,
1962-1975”, về các phi công bay yểm trợ không yểm, liên lạc với
các cố vấn Hoa Kỳ trong các tiểu đoàn Nhảy Dù, cho những trận
đánh của binh chủng Nhảy Dù. Cả sáu quyển sách này đều đề
cao sự chiến đấu dũng mãnh của các người lính Nhảy Dù Việt
Nam.
Những tưởng các quyển sách vừa nêu trên đủ nói lên được tấm
lòng của các viên cố vấn Hoa Kỳ, dành cho các người bạn Nhảy
Dù Việt Nam của họ. Nhưng, mới ngày hôm qua, ngày 8 tháng Tám,
Đại Tướng hồi hưu Barry McCaffrey đã dành một sự ngạc nhiên cho
người Việt tị nạn chúng ta, khi ông viết một bài viết ngắn
trên báo New York Times [cho độc giả Hoa Kỳ], viết về những
người lính Nhảy Dù Việt Nam, với tấm lòng cảm phục và sự
tiếc nuối vô bờ.
Tôi xin phép chuyển dịch và đặt tựa bài viết: “Có Một Binh
Chủng Nhảy Dù Bị Lãng Quên”.
Tôi đến Việt Nam vào tháng Bảy năm 1966, và cho nguyên cả năm sau
tôi làm việc cố vấn với Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam. Đó là năm
cuối mà chúng ta nghĩ là đang chiến thắng. Đó là năm cuối mà
chúng ta có thể định nghĩa điều mà chúng ta nghĩ chiến thắng
là như thế nào. Đó là năm của chủ nghĩa lạc quan, của gia tăng
quân số và nhận lãnh cuộc chiến từ người Việt – và con số
thương vong của Hoa Kỳ cũng cao hơn.
Vào cuối năm 1967, có 486,000 quân nhân Hoa Kỳ trên chiến trường.
Con số lính Mỹ tử trận năm ấy gần như gấp đôi con số của năm
1966. Giữa tất cả các sự việc đó, sự hy sinh, lòng dũng cảm
và việc hiến dâng của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa cho đất nước
họ hầu như đã biến mất từ ý thức của giới truyền thông và
chánh trị Hoa Kỳ.
Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam, mà tôi đã tham gia với tính cách là
viên cố vấn phụ tá cho tiểu đoàn, là một đơn vị chiến đấu ưu
tú. Cho đến năm 1967, các người lính Nhảy Dù, với quân phục
ngụy trang và mũ đỏ riêng biệt, đã lên đến 13,000 quân nhân, tất
cả đều là lính tình nguyện. Những người như chúng tôi được
vinh dự làm việc với họ, rất kinh ngạc bởi lòng dũng cảm và
chiến thuật táo bạo của họ. Các viên sĩ quan và các hạ sĩ
quan thâm niên là những người lính rất tài năng và có đầy kinh
nghiệm chiến trường; thật là một điều dễ quên khi biết các
người lính Hoa Kỳ là mới mẻ đối với đất nước Việt Nam, trong
khi nhiều người trong bọn họ đã có mặt với cuộc chiến từ năm
1951.
Là các viên cố vấn, chúng tôi thường làm việc như một cán bộ
hay sĩ quan liên lạc từ cấp tiểu đoàn và chiến đoàn/lữ đoàn.
Chúng tôi đã dành một năm để chuẩn bị tại California, tính luôn
cả 16 giờ đồng hồ của mỗi ngày để học về văn hóa và ngôn ngữ
tại học viện Defense Language Institute. Tôi cũng hoàn tất xong
khóa, học và hiểu để nói tiếng Việt. Các chiến thuật về
phản du kích và huấn luyện hệ thống về võ khí thời Đệ Nhị
Thế Chiến mà người Việt vẫn còn sử dụng thì học tại căn cứ
Fort Bragg, North Carolina.
Chúng tôi làm việc với một vai trò rộng lớn; phối hợp yểm trợ
pháo binh và không yểm, sắp xếp trực thăng chuyển quân và cứu
thương, và cung cấp tin tức tình báo cùng giúp đỡ về tiếp
liệu. Chúng tôi không cho lịnh, và chúng tôi không cần phải làm
vậy. Các người bạn đồng nhiệm là những người đàn ông mà
chúng tôi ngưỡng mộ, và họ vui thích có được chúng tôi – và
hỏa lực Hoa Kỳ – cho họ. Chúng tôi dùng thức ăn của họ. Chúng
tôi nói tiếng họ. Chúng tôi tin tưởng hoàn toàn vào họ. Tôi
thường có một người lính Nhảy Dù mang máy truyền tin, và anh
cũng là người lính cận vệ.
Thông thường, một toán cố vấn cấp tiểu đoàn như tôi bao gồm ba
người: một viên đại úy Lục Quân Hoa Kỳ, một viên trung úy và
một viên hạ sĩ quan, thường là một trung sĩ. Các viên trung sĩ
là thành phần nồng cốt. Trong khi các sĩ quan sẽ thay phiên:
đến và đi; các viên trung sĩ ở lại với các đơn vị được chỉ
định cho họ cho đến cuối cuộc chiến – hay cho đến khi họ hy sinh,
hay bị loại khỏi chiến trường.
Lần tôi được giới thiệu về Việt Nam lại là một kinh nghiệm
đầy xương máu. Chúng tôi chuyển quân bằng các chiếc giang đỉnh
Hải Quân và trực thăng của Lục Quân Hoa Kỳ, vào một con sông
sình lầy của vùng đồng bằng Cửu Long, nằm ở phía nam Sài Gòn.
Đây là trận chiến chả có vinh quang, chiến đấu và chết chìm
dưới sình lầy dơ bẩn và nước mặn. Không có một chút phiêu lưu
mà chúng tôi đã cảm giác khi học một khóa học của Biệt Động
Quân. Ông đại úy của tôi, là một sĩ quan chuyên nghiệp và cũng
là người cố vấn trưởng tài năng, tử trận. Về lại căn cứ, tôi
giúp mang thi hài ông xuống trực thăng. Nhưng đây chỉ là một
khởi đầu.
Sau bốn tháng trong ‘tua’ với Nhảy Dù, chúng tôi liên quan đến
một trận đánh lớn và đẩm máu, tiếp sức cho các đơn vị Thủy
Quân Lục Chiến Hoa Kỳ phía bắc Đông Hà, gần bờ biển, nằm về
hướng bắc của Nam Việt Nam. Hai trong các tiểu đoàn của chúng
tôi được trực thăng vận vào vùng Phi Quân Sự, tìm kiếm và chận
đứng một đoàn quân quan trọng của Bắc Việt, đang di chuyển về
hướng Nam. Công tác này trở thành ba ngày chiến trận khốc liệt
và đầy máu. Viên cố vấn trưởng bị hy sinh. Người hạ sĩ quan
dũng cảm, Thượng Sĩ Rudy Ortiz bị trúng đạn đầy người. Anh kêu
tôi lắp băng đạn vào khẩu súng M-16 của anh và đặt súng lên
ngực, để cho anh có thể “chiến đấu cho tới chết” như những
người lính còn lại của chúng tôi (may mắn, anh thoát chết).
Chúng tôi có cả trăm thương vong và gần như bị tràn ngập. Nhưng
những người lính Nhảy Dù chiến đấu dũng mãnh và bền bỉ.
Trong lần nguy khẩn, với sự yểm trợ của không yểm và hải pháo,
chúng tôi tái phản công. Viên tiểu đoàn phó vẫn bước thẳng
người trong lúc đạn bay đầy quanh để đến ngay hố cá nhân tôi.
“Trung Úy”, ông bảo tôi, “đây là giờ phút chúng ta mất mạng”.
Tôi vẫn cảm thấy rợn da khi nhớ tới những lời nói của ông.
Trong chiến trận, lính Nhảy Dù không bỏ rơi đồng đội đã chết
hay bị thương trên chiến trường; ngay cả võ khí cũng vậy. Trong
một trận đánh khác, Tommy Kerns, người bạn cùng khóa tại
trường West Point là một người to lớn, chơi football cho trường,
bị thương nặng và bị kẹt trong một cái rãnh hẹp. Những người
lính Nhảy Dù Việt Nam đang ở với anh, nhỏ con hơn anh nhiều, đã
cố gắng nhưng không thể kéo anh ra khỏi rãnh. Thay vì rút lui và
bỏ mặc anh, họ giữ vững tuyến và chiến thắng cuộc chiến đấu
hung tợn cho cái thân xác to lớn của anh. Anh thoát chết nhờ
vào lòng dũng cảm của họ.
Các viên cố vấn Hoa Kỳ và hầu hết các đơn vị của Sư Đoàn
Nhảy Dù đóng quân ngay và chung quanh thành phố Sài Gòn. Chúng
tôi yêu thích sức sống và sự náo nhiệt của thành phố. Chúng
tôi yêu thích văn hóa, ngôn ngữ và luôn cả người Việt. Chúng tôi
hãnh diện một cách điên cuồng về tính cách của chúng tôi với
Mũ Đỏ. Chúng tôi biết chắc là cả thế giới đã ghen tương về
nhiệm vụ của chúng tôi – chúng tôi đang làm việc chung với đơn
vị ưu tú nhứt của đất nước. Được trả lương với chiến trận và
cộng thêm bằng dù, chúng tôi có vẻ như có cả đống tiền. Chúng
tôi sống trong những tòa nhà có máy lạnh. Chúng tôi còn trẻ
trung, có một chút ít khờ dại, nhưng luôn mạnh bạo. Các viên
đại tá, trung tá Hoa Kỳ chỉ huy đám cố vấn là những người
lớn tuổi, trầm tĩnh và là những người đàn ông dày dạn chiến
trường; họ đã từng là những chiến binh Nhảy Dù đánh những
trận đánh tệ hại hơn trong thời Đệ Nhị Thế Chiến và Chiến
Tranh Triều Tiên.
Đời sống cố vấn trong Sư Đoàn Nhảy Dù rất khó mà đoán biết
cho được. Công việc của sư đoàn là phục vụ với tính cách tổng
trừ bị, luôn được mang đến chiến trường bất cứ lúc nào mà
các viên tư lịnh cảm thấy tình hình nguy kịch. Một tiểu đoàn
Nhảy Dù hay nguyên cả một chiến đoàn/lữ đoàn sẽ được báo
động cho cuộc chuyển quân khẩn cấp trong lúc giữa đêm. Chúng tôi
sẽ ngồi chật cứng bên trong các chiếc vận tải cơ của Không Quân
Hoa Kỳ hay Không Quân Việt Nam, các chiếc máy bay đang đậu với
máy nổ vang, từng hàng dài tại căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhứt,
sát cạnh Sài Gòn. Đạn dược sẽ được cấp phát, có đôi khi, cả
dù nữa. Một kế hoạch chiến trường gấp rút ban hành.
Và rồi – hỗn loạn, địa ngục mở rộng. Các tiểu đoàn sẽ được
mang đến những chỗ nào mà họ cần đến. Chúng tôi có thể đi
đến bất cứ nơi nào, và sẽ biết được chúng tôi đang ở giữa
một trận chiến. Rất nhiều viên cố vấn và cả ngàn người lính
Nhảy Dù mà tôi đã chiến đấu chung đã không trở về lại từ
trong các cuộc hành quân đó. Tôi vẫn có thể nhìn thấy các
gương mặt non trẻ ấy. Đại Úy Gary Brux, Đại Úy Bill Deuel, Trung
Úy Chuck Hemmingway, Trung Úy Carl Arvin. Người lính mang máy rất
trẻ của tôi, Binh Nhứt Michael Randall. Tất cả đều hy sinh. Dũng
Cảm và Tự Hào.
Việt Nam không phải là “tua” đầu chiến trận của tôi. Sau khi tốt
nghiệp từ trường Võ Bị West Point, tôi gia nhập Sư Đoàn 82 Nhảy
Dù cho sự can thiệp “khủng hoảng” Dominican Republic vào năm 1965.
Chúng tôi được mang đến một hòn đảo và dẹp sạch đám Cuba –
cảm hứng nổi dậy của bọn cộng sản, và ở lại như một đoàn
quân bảo vệ hòa bình. Chúng tôi đã nghĩ chiến trận là như vậy,
và rồi chúng tôi trở về lại căn cứ Fort Bragg, và mong mỏi
được đến Việt Nam – nhiều viên trung úy trong tiểu đoàn chiến
đấu của tôi nhảy lên chiếc jepp, lái thẳng đến Bộ Tư Lịnh Lục
Quân ở Washington để tình nguyện cho chiến trường Việt Nam.
Chúng tôi đã nghĩ sẽ bị bỏ lỡ chiến trận.
Giờ thì chúng ta đã biết câu chuyện kết thúc ra sao. Hai triệu
người Việt đã mất mạng. Hoa Kỳ mất 58,000 và có 303,000 thương
vong. Hoa Kỳ sa vào cuộc nội chiến đắng cay và rối loạn về
chánh trị. Lúc ấy thì chúng tôi không biết gì hết. Tôi rất
lấy làm hãnh diện được chọn phục vụ với Nhảy Dù Việt Nam.
Người vợ đẹp đẽ mới vừa cưới mà tôi rất thương yêu, biết tôi
cần phải đi. Cha tôi, một viên Tướng của Lục Quân, sẽ vinh danh
tôi, nếu tôi chẳng may tử trận.
Tất cả các sự việc này đã biến mất đi 50 năm trước đây. Các
người lính trong Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam, những người đã may
mắn thoát khỏi việc sụp đổ của miền Nam Việt Nam, hoặc là
trốn thoát qua ngả Cam Bốt [Thái Lan] hay trải qua cả một thập
kỷ trong các trại “cải tạo” tàn bạo kia. Gần như hầu hết
những người đó rồi cũng đến được Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Chúng tôi có một hội cố vấn người Mỹ cùng các chiến hữu
người Việt, và có cả một Đài Tưởng Niệm cho các Cố Gắng của
chúng tôi tại Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington. Tại nơi ấy, chúng
tôi gặp gỡ mỗi năm và nhớ lại những kỷ niệm đã cùng nhau
chiến đấu, như thế nào. Chúng tôi đội Mũ Đỏ. Chúng tôi cười
vang với các câu chuyện xưa kia, nhưng có một điều rất đau lòng
là chúng tôi đã mất mát quá nhiều, và điều ấy lại là con số
không, không có được một sự đền bù, tưởng thưởng nào.
Nhiều người đã luôn hỏi tôi về các bài học trong chiến trận
tại Việt Nam. Những người trong chúng ta đã từng chiến đấu
chung với Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam là những người không bao giờ
lên tiếng. Tất cả những điều chúng ta luôn nhớ và biết đến là
sự chịu đựng dũng cảm và lòng quyết tâm của các Binh Nhì
Nhảy Dù Việt Nam, những người lính trẻ luôn thẳng bước vào
chiến trận. Họ không có được các tượng đài vinh danh, chỉ trừ
trong tâm tưởng và ký ức của chúng ta.
Barry McCaffrey (@mccaffreyr3) served as an adviser in the Vietnamese
Airborne Division. He retired as a four-star general, later served as
the Clinton administration drug czar and is now a national security
commentator for NBC News.
Link: https://mobile.nytimes.com/…/o…/south-vietnam-airborne.html…
Link: https://www.nytimes.com/…/opin…/south-vietnam-airborne.html…
Từ trái : Đại uư Barry R
Mc Cafrey , Đại uư Ernie Webb , Trung sĩ Christian Girart . Cố vấn TĐ2ND
năm 1967 .
Đại uư Ernie
Webb và Thiếu tá Lê quang Lưỡng TĐT TĐ2 ND . Năm 1966 .
.............
Little Saigon/9 tháng 8 năm 2017
Phuc Nguyen
|