|
Binh Chủng
Nhảy Dù 20 N
ăm
Chiến Sự |
Mặt Trận
Khánh Dương
Từ
19/3/1975 đến 2/4/1975
Khánh
Dương là một thị trấn nhỏ, nằm ở
độ cao khoảng 1,000 met, cạnh Quốc Lộ 21, nối
liền vùng cao nguyên Ban Mê Thuột với vùng duyên hải Tỉnh
Khánh Ḥa, cách QL 1 khoảng 60 km. Khánh Dương là vùng đất
đồi núi trong khung cảnh thiên nhiên bao quanh bởi những
khu rừng già thật hùng vĩ, như che chở sự sống
b́nh yên cho những người dân di cư trú ngụ từ
bốn phương trời. Hầu hết, họ là những
gia đ́nh quân nhân di hành theo bước quân ngũ đến
đây lập nghiệp sinh sống. Quanh Khánh Dương là
những bản Thượng có nhiều sắc dân thiểu
số hiền ḥa sinh sống.
Cách Khánh Dương về hướng
Đông dọc theo quốc lộ I không bao xa, núi Đá Bia nằm
trên Đèo Cả thuộc Phú Yên, sừng sửng khối
đá lớn trông như tạc h́nh ảnh mẹ bồng
con đứng nh́n ra biển gọi là ḥn Vọng Phu, hay c̣n
gọi là núi Mẹ Bồng Con.( Sự tích Ḥn Vọng Phu dựa theo câu truyện
dân gian: Trong thời tao lọan, có hai anh em ruột v́ chạy
giặc phải ly tán từ thuở nhỏ. Khi chàng trai và
cô gái gặp nhau v́ không nhận ra nhau nên thương yêu nhau
và kết duyên vợ chồng, sinh hạ được
đứa con, ăn ở với nhau rất hạnh phúc.
Thế rồi một ngày, người chồng gội
đầu cho vợ, thấy có vết sẹo, lần ṃ
câu chuyện, người chồng mới vỡ lẽ vết
sẹo đó do chính chàng gây ra cho cô em gái từ thuở nhỏ.
Người chồng đau khổ, ân hận, không dám nói
cho vợ biết, lặng lẽ ra đi. Biệt tăm
chàng, người vợ thương nhớ chồng, ôm con
lên núi đứng chờ cho đến khi hóa đá)
Vào
những ngày đầu năm 1975, dưới áp lực của địch đè nặng
trên cao nguyên, pḥng thủ Khánh Dương được
tăng cường Trung Đoàn 40 thuộc SĐ22BB do Đại
Tá Thiều làm Trung Đoàn Trưởng và hai Tiểu
Đoàn ĐPQ thuộc Liên Đoàn 922 Địa
Phương Quân thuộc Tiểu Khu Khánh Ḥa trấn giữ.
Sau khi chiếm lỉnh trọn vùng Cao Nguyên gồm các Tỉnh
Ban Mê Thuột, Kontum và Pleiku, Cộng quân muốn tiến về
vùng duyên hải để tiến chiếm Khánh Ḥa, Phú Yên và
Qui Nhơn nên bằng mọi giá họ phải bứng Khánh
Dương.
Lực Lượng Địch : :
-
SĐ F10. chủ
lực tấn công BMT.
-
SĐ320 đă bị thiệt hại nặng
khi đụng độ với Nhảy Dù ở Thượng
Đức.
-
SĐ316 CSBV từ
Nam Lào tiến sang
-
5 Trung Đoàn pháo
binh gồm 48 khẩu pháo dủ loại và pḥng không.
-
1 Trung Đoàn Chiến
Xa, một Trung Đoàn Đặc Công.
-
2 Trung Đoàn Công
Binh, Một Trung Đoàn Thông Tin.
Lực
Lượng Bạn :
-
Trung Đoàn
40/SĐ22 Bộ Binh. do Đại Tá Thiều làm Trung
Đoàn Trưởng
-
Lữ
Đoàn 3 Nhảy Dù, LĐT là Trung Tá Lê Văn Phát gồm :
* Tiểu
Đoàn 2Nhảy Dù, TĐT Thiếu Tá Trần Công Hạnh
* Tiểu
Đoàn 5Nhảy Dù, TĐT Trung Tá
Bùi Quyền
* Tiểu
Đoàn 6Nhảy Dù, TĐT Trung Tá
Nguyễn Hữu Thành.
* Tiểu
Đoàn 3 Pháo Binh Nhảy Dù, TĐT là Thiếu Tá Nguyễn
Văn Triệu.
* Đại
Đội 3 Trinh Sát Nhảy Dù, ĐĐT là Đại Úy
Nguyễn Viết Hoạch.
-
2 Tiểu
Đoàn thuộc Liên Đoàn 922 Địa Phương
Quân/Tiểu Khu Khánh Ḥa
-
1 chi đoàn M113
Diển
Tiến :
Trưa ngày 14 tháng 3, 1975, trong khi Sư
đoàn 23 BB đang khai triển các cánh quân để tiến
về giải cứu Ban Mê Thuột, th́ tại Cam Ranh, Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ tướng Trần
Thiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên,Trung
tướng Đặng Văn Quang, phụ tá An ninh Quân sự
của Tổng Thống, đă họp mật với Thiếu
Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn
2-Quân khu 2.Tại cuộc họp kéo dài gần 2 giờ, Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Thiếu
Tướng Phạm Văn Phú triệt thoái toàn bộ lực
lượng của Quân đoàn 2/Quân khu 2 khỏi Cao nguyên,
di chuyển về các tỉnh duyên hải miền Trung thuộc
lănh thổ Quân khu 2.
Vào lúc 5 giờ 10 chiều ngày 14 tháng
3,1975, khi vừa từ Cam Ranh trở về, Tướng
Phú triệu tập một cuộc họp khẩn cấp với
thành phần tham dự gồm có: Chuẩn tướng Trần
Văn Cẩm, Phụ tá Hành quân; Chuẩn tướng Phạm
Ngọc Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân, Đại
tá Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt động
quân Quân khu 2 (gồm 5 liên đoàn Biệt động quân),
Đại tá Lê Khắc Lư, Tham mưu trưởng QĐ 2
& Quân khu 2.
Mở đầu cuộc họp đặc
biệt này,Tướng Phú đă thừa lệnh Tổng thống
VNCH gắn cấp Chuẩn tướng cho Đại tá Phạm
Duy Tất. Ngay sau đó, ông tŕnh bày tóm tắt nội dung cuộc
họp tại Cam Ranh và chỉ định Chuẩn Tướng
Trần Văn Cẩm và tân Chuẩn Tướng Phạm
Duy Tất chỉ huy tổng quát cuộc rút quân khỏi Cao
nguyên.
Sáng ngày 15- 3-1975, Thiếu tướng Phạm
Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 cùng với một
số sĩ quan trưởng pḥng và sĩ quan tham mưu
đă bay về Nha Trang để tái tổ chức Bộ
Tư lệnh Quân đoàn2 / Quân khu 2 tại đây.
Sau khi tấn chiếm hoàn
toàn thị xả Ban Mê Thuột, Công Quân gấp rút điều
động các Sư Đoàn 320, 316, 968, và F10 di chuyển tiến
chiếm Pleiku và khi biết được Pleiku bỏ ngỏ
họ điều quân tấn công thẳng xuống khu vực
đồng bằng dọc theo duyên hải qua hai ngă QL 19 và
QL 21.
Ngày 15/3/1975, LĐ3ND đang trấn
đóng tại Đại Lộc Quảng Nam sau chiến trận
Thượng Đức, được lệnh bàn giao khu
vực trách nhiệm cho Lữ Đoàn 369 TQLC và xuống 2
tàu Dương Vận Hạm HQ504 và HQ404 của Hải Quân
tại cảng Đà-Nẳng để xuôi Nam về pḥng
thủ SàiG̣n theo lệnh triệt thoái của bộ TTM.
Trong lúc đó,Thiếu Tướng Phú xin bộ Tổng Tham
Mưu cho LĐ3ND tăng viện để lập pḥng tuyến
mới tại Khánh Dương.Cùng một lúc LĐ2ND
được lệnh bàn giao khu vực trách nhiệm phiá Bắc
đèo Hải Vân cho TQLC và được không vận thẳng
về SàiG̣n.
Theo lịch tŕnh di tản của Quân Khu
2, ngày 16/3/1975, một số đơn vị tiếp vận,
Pháo binh, Công binh của Quân đoàn 2 di chuyển trên 200 quân
xa, với sự yểm trợ của đơn vị Lữ
Đoàn 2 Kỵ Binh, Liên Đoàn 7 BĐQ đă khởi hành ra
khỏi thị xă Pleiku, đây là lực lượng đi
đầu của của đoàn quân triệt thoái khỏi
Pleiku.
Khi Tiểu đoàn
58/LĐ7BĐQ tiến chiếm đỉnh đèo Cheo Reo và
làm chủ t́nh h́nh trận địa th́ CQ dùng chiến xa tấn
công và bao vây lực lượng BĐQ ở phía dưới
chân đèo hướng tỉnh lỵ Phú Bổn. CácTiểu
đoàn 32 và 85BĐQ, Pháo binh và phân đội hỏa tiễn
TOW đă dàn đội h́nh chống trả quyết liệt.
Trận chiến càng lúc càng khốc liệt. Liên đoàn 7
BĐQ xin phi pháo yểm trợ, 40 phút sau, oanh tạc cơ
của Không quân VNCH đến oanh kích CQ quanh trận tuyến.
Đến 18 giờ 05 phút, chiến trường mới tạm
im tiếng súng, nhưng Cộng quân vẫn c̣n áp lực
quanh đoàn quân di chuyển.
Chiều 18/3/1975, Bộ Tư lệnh
Quân đoàn 2 về đến Hậu Bổn, tỉnh lỵ
tỉnh Phú Bổn, nơi Quân đoàn 2 đặt Bộ
Tư Lệnh nhẹ để điều động cuộc
triệt thoái, điểm đến là vùng duyên hải c̣n
cách hơn 160 km. trong khi Công binh chưa làm kịp cầu
phao bắc qua sông Ê-Pa.
Tối 18/3/1975, Cộng quân lẻn vào khu
vực Tây
Chiều ngày 19/3/1975, Bộ Tư lệnh
Quân Đoàn 2 nhận được báo cáo Phú Bổn thất
thủ. Một số lớn chiến xa M 48 và M 41 của Lữ
đoàn 2 Kỵ Binh bị kẹt lại tỉnh lỵ Hậu
Bổn.
Trong ngày nầy, đang trên đường
xuôi Nam sau 2 ngày và 3 đêm hải hành, LĐ3ND được
lệnh đổ quân xuống Cầu Đá Nha Trang để
tăng viện cho mặt trận Quân Khu 2. Sau khi cập Bến
Nha Trang, Trung Tá Lê Văn Phát LĐT/LĐ3ND nhận lịnh
từ Thiếu Tướng Nguyễn Văn Phú: Lữ
Đoàn 3 Nhảy Dù điều động 3 Tiểu
Đoàn cơ hữu 2, 5 & 6 Nhảy Dù cùng một Tiểu
Đoàn Pháo Binh 105 ly và Đại Đội 3 Trinh Sát Nhảy
Dù đến lập tuyến pḥng thủ dọc theo QL21
trên đèo M’Drak khởi đầu từ chân đèo Phượng
Hoàng đến Khánh Dương.
Trong khi cuộc triệt thoái của lực
lượng Quân đoàn 2 đang diễn ra trên liên tỉnh
lộ 7 B, th́ tại tỉnh Quảng Đức,vào trưa
ngày này, Cộng quân đă tấn công cường tập vào
tỉnh lỵ và chi khu Kiến Đức, chi khu trưởng
Kiến Đức bị thương. Đến 3giờ
20 chiều 20/3/1975, bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 mất
liên lạc với Đại tá Ngh́n-Tỉnh trưởng/Tiểu
khu trưởng Quảng Đức.
*Cộng quân áp lực Khánh
Dương
Cùng lúc tấn công vào Quảng Đức,
trong ngày 20/3/1975, Cộng quân đă áp lực nặng ở Bắc
Khánh Dương, tỉnh Khánh Ḥa. Tin tức t́nh báo ghi nhận
sư đoàn 968 CSBV và hai trung đoàn của sư đoàn
320 CSBV đă từ Ban Mê Thuột di chuyển xuống Khánh
Dương, cách địa điểm này 8 km về hướng Tây Bắc.
Ngày 20/3/1975 Trung Tá Lê Văn Phát ra lệnh
cho BCH/LĐ3ND,TĐ2ND,TĐ3PBND, ĐĐ3TSND theo đường
bộ kéo lên Dục-Mỷ, Ninh Hoà. TĐ5ND và TĐ6ND rải
quân bố trí từ núi Chu Kroa (3100m) dọc theo QL21 dài khoảng
30 cây số về Khánh Dương. Phiá
Mặt Trận Quân Khu 2 cuối
tháng 3/1975
Sáng ngày 21/3 tất cả đơn vị
thuộc LĐ3ND đều sẳn sàng tại vị trí chiến
đấu của ḿnh. Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù do Trung Tá
Bùi Quyền làm TĐT trấn ngự tại phía Nam Thị
trấn Khánh Dương cạnh QL21; Tiểu Đoàn 6 Nhảy
Dù do Trung Tá Nguyễn Văn Thành làm TĐT trấn ngự tại
cao điểm 957m Buôn Ea Thi. Và Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù
trấn ngự ngay tại chân đèo Phượng Hoàng. BCH
Lữ Đoàn , TĐ3 Pháo Binh và Đại Đội 3
Trinh Sát đóng tại Dục Mỹ.
Vào lúc 12 giờ 15 ngày 21/3/1975, phi trường
Khánh Dương bị pháo kích. Một đơn vị CQ
di chuyển về vị trí cách phi trường Khánh
Dương khoảng 1 km về hướng
Sau khi quan sát trận địa, Trung Tá
LĐT yêu cầu Quân Đoàn tăng viện ít nhất một
Sư Đoàn Bộ Binh hậu thuẩn để cho Lữ-Đoàn
3 Nhảy Dù có thể xung kích ngăn chận đà tiến
quân của địch quân. Quân đoàn đă trả lời
không c̣n quân để tăng viện.
17 giờ 45, Một Trung Đoàn của
SĐF10 CSBV tấn công vào TĐ2/40/22BB tại 10km phía Tây
Khánh Dương (cây số 62).Gần 100 Công quân bỏ xác tại
trận và 2 tù binh. Đây chỉ là trận đánh ḍ dẫm
của Công quân.
Sáng ngày 22/3/1975, mặt trận Khánh
Dương bị áp lực nặng. Lực lượng CQ
đă dốc toàn lực mở cuộc tấn công pḥng tuyến
Khánh Dương.
7.30 giờ Công quân mở trận địa
pháo kinh hồn vào các đơn vị pḥng thủ phía Tây
Khánh Dương. Hàng ngàn quả đạn pháo đủ loại
tới tấp rơi vào các căn cứ pḥng thủ của
Trung Đoàn 40BB và 2 Tiểu Đoàn Địa Phương
Quân Tỉnh Phan Rang. Sau đó SĐF10/CSBV dốc toàn lực
biển người với xe tăng yểm trợ tấn
công vào các đơn vị nầy. Sau một giờ giao
tranh các đơn vị pḥng thủ bị tràn ngập và cắt
ra từng mănh nhỏ, trên phân nửa quân số bị
thương vong, một sô tàn quân của các đơn vị
nầy rút về phía Nam cuả pḥng tuyến Nhảy Dù rồi
tiếp tục rút về Diên Khánh.
9 giờ 00 sáng Cộng quân tiến về
Chi khu Khánh Dương với 12 chiếc xe tăng hổ trợ
không cần ngụy trang. Sau đó CS pháo đại bác122 ly
vào quận Khánh Dương, đến 9,30 giờ th́ chi khu
Khánh Dương mất liên lạc. Đến 10 giờ, Quận
trưởng Khánh Dương báo cáo phải di tản chiến
thuật v́ Cộng quân tràn ngập.
Ngày 23/3/1975 Tại mặt trận Khánh
Dương , Cộng quân đă gia tăng áp lực tại
tuyến pḥng ngự của Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù. Lữ
Đoàn Trưởng LĐ3ND yêu cầu phi pháo oanh kích
đoàn chiến xa CSBV khoảng 20 chiếc trên đường
kéo lên đèo M’Drak và xin tăng cường lực lượng
Thiết Kỵ cũng như trang bị hỏa tiển TOW
chống chiến xa.
16 giờ 30, nhiều chiến xa của
Cộng quân xuất hiện ở vị trí cách trung tâm quận
lỵ Khánh Dương 2 km về phía Tây Bắc. Ở phía
Đông Nam Khánh Dương, phi cơ quan sát của Không quân
VNCH ghi nhận có 2 chiến xa T-54. Ở phiá Bắc có nhiều
xe kéo đại pháo cách quận lỵ khoảng 3 km. Không
quân đă thực hiện nhiều phi xuất oanh tạc
chính xác ngăn chận mức độ tiến quân của
Cộng quân.
Sau đó các đơn vị tiền sát
cuả LĐ3ND bắt đầu chạm địch, với
thế tấn công ào ạt cuả CSBV trên QL21, nhưng gập
sức kháng cự dũng mảnh cuả các chiến sỉ
Nhảy Dù với những trận cận chiến ngoạn
mục địch quân đă bị tổn thất nặng
ngay trận đầu với 5 chiến xa T54 bị hạ
tại trận và hằng trăm xác công quân bỏ lại
chiến điạ.
Với kinh nghiệm già dặn chiến
trường đoán chắc cộng quân sẽ tập kích
sau đó, LĐT/LĐ3ND cho ĐĐ3TSND của Đ/U Nguyễn
Viết Hoạch bung rộng ra dọc hai bên sườn quốc
lộ 21 sẳn sàng nghinh chiến.
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 25/3/1975, đúng
như dự đoán của Lữ Đoàn Trưởng
LĐ3ND, trong ngày này, Sư đoàn F-10 CSBV mở cuộc
tấn công toàn diện vào pḥng tuyến của Lữ
đoàn 3 Nhảy Dù với quân số gấp 6 lần. Các
chiến sỉ Nhảy Dù không hề nao núng chống trả
mảnh liệt đôi khi phải dùng thế cận chiến
để đối đầu với cộng quân.tại
Khánh Dương, sau cùng lực
lượng Nhảy Dù đă đánh bật cộng quân ra
khỏi pḥng tuyến sau những trận kịch chiến.
Ngày 28/3/1975 một đoàn xe tiếp tế
thực phẩm và đạn dược cho LĐ3ND đă
bị cộng quân phục kích đánh tan trên Quốc lộ
21 dưới chân đèo Phượng Hoàng. TĐ5ND
được lịnh lui quân về vị trí TĐ6ND và
TĐ2ND trở thành đơn vị cơ động ứng
chiến và được lịnh giải tỏa QL21 từ
đèo Phượng Hoàng đến Dục Mỹ để
an ninh lộ tŕnh tiếp tế.
Ngày 29/3/1975 vào lúc 3.00 giờ sáng, Pháo binh
cộng sản đủ loại dập lên tuyến pḥng
thủ của Tiểu Đoàn 5 và 6 Nhảy Dù sau đó cộng
quân tập trung toàn lực lượng biển người
với các Sư Đoàn 316, 320 và F10 quyết dứt điểm
LĐ3ND từ 3 phía. LĐT/LĐ3ND ra lệnh cho các
đơn vị trực thuộc lập “pḥng tuyến
thép” không lui. Cho đến
21.00 giờ đêm 4 chiếc Thiết Vận Xa M113 tự
ư rời khỏi vị trí được chỉ định
liền bị bắn cháy ngay tức khắc. Đó là kỷ
luật thép của “Đoàn Quân Mũ Đỏ” khi lâm chiến.
LĐ3ND sau những thiệt hại tại
Thường Đức Quân Khu 1 và hơn một tuần lể
đương đầu với ba Sư Đoàn CSBV
đông gấp 10 lần, không đươc bổ xung,
không được tiếp tế, không chiến xa, không
pháo binh hạng năng hổ trợ, chỉ c̣n lại khoảng
hơn 1000 chiến binh.
Tuyến đầu tiên là TĐ5ND và TĐ6ND bị địch bao vây tứ
bề. Địch quân đông như kiến cùng quân pḥng thủ
đánh cận chiến “xáp lá cà” suốt đêm đến
7.00 giờ sáng mà tuyến pḥng thủ vẫn c̣n giữ vững.
Sáng ngày hôm sau 30/3/1975, trên 20 phi tuần A37 bay lên yểm trợ
làm giảm bớt áp lực của địch quân. Quân Dù gấp
rút tổ chức lại hệ thống pḥng thủ.
2 giờ 15 chiều ngày 30/3/1975, Cộng
quân lại mở cuộc tấn công cường tập mới
vào pḥng tuyến của Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù tại
Khánh Dương. Lữ Đoàn Trưởng báo cáo khẩn
về t́nh h́nh cho Thiếu tướng Phú. Vị Tư lệnh
Quân Đoàn 2 ra lịnh "Lữ đoàn Dù cố gắng
giữ pḥng tuyến", và hứa sẽ có lực lượng
tăng viện. Một cây cầu trên QL21 dẩn đến
Khánh Dương bị Không Quân VNCH phá sập..
·
Trận
chiến cuối cùng tại Qui Nhơn
Ngày 31/3/1975 Sáng
sớm t́nh h́nh tại Khánh Dương vô cùng nguy ngập,LĐT/LĐ3ND báo cáo cho Tướng
Phú : tuyến pḥng thủ
TĐ5ND bị cộng quân cắt đứt thành nhiều
mảnh, nếu không có quân tăng viện LĐ3ND sẽ bị
địch quân tràn ngập.
Tướng Phú gọi về Bộ Tổng
Tham Mưu khẩn cầu gởi quân tăng viện gấp
cho Khánh Dương. Xin tăng cường 2 TĐ/BĐQ trấn
đóng tại đèo Cả và cho LĐ3TQLC vào vùng trách nhiệm
tại Khánh Dương ngay ngày hôm nay.
Trong khi đó cộng quân đă tràn chiếm
các quận lỵ của tỉnh B́nh Định.Tại Qui
Nhơn, SĐ3CSBV đă chiếm nhiều vị trí trọng
yếu trong thành phố, trong đó có hải cảng. Lực
lượng Sư đoàn 22 Bộ binh với Trung đoàn
41 và Trung đoàn 42 đă nổ lực mở cuộc phản
kích với sự yểm trợ hỏa lực hải pháo
từ tàu Hải quân ở ngoài biển, nên địch quân
bị đánh bật ra khỏi khu ven bờ biển, vùng kiểm
soát của lực lượng VNCH được mở một
khoảng rộng dài chừng 4 dặm về phía Nam, để
tạo an ninh cho tàu Hải quân cập bến đón các
đơn vị c̣n lại của Sư đoàn 22 Bộ
binh triệt thoái khỏi tỉnh B́nh Định.
LĐ3ND trấn ngự từ đèo Phượng
Hoàng đến Khánh Dương
Trung Đoàn Trưởng Trung đoàn 42 Bộ
binh tự sát tại bờ biển Qui Nhơn; Trung Đoàn
Trưởng 41 cùng 2/3 cấp SQ chỉ huy được
ghi nhận là tử trận hoặc mất tích :Trong cuộc
triệt thoái tại Qui Nhơn, vị Trung Đoàn Trưởng
Trung đoàn 42 Bộ binh là Đại tá Nguyễn Hữu
Thông đă không chịu đi, từ chối cuộc di tản
và sau đó ông đă tự sát bằng súng Colt 45. SĐ22BB tổn
thất khoảng 70% quân số.
Một Tiểu Đoàn Trưởng
Địa Phương Quân tỉnh B́nh Định tự
sát ngay trước quận đường Phù Cát. Cùng lúc diễn
ra trận chiến tại Qui Nhơn Tại Căn cứ
Không quân Phù Cát, sau 2 ngày đêm tổ chức cố thủ,
Trung đoàn 47/Sư đoàn 22 Bộ binh đă bị CQ tấn
công cường tập. Trong đêm, Trung đoàn này rút về
Qui Nhơn th́ bị phục kích tại quận lỵ Phù
Cát, bị thiệt hại gần 50% lực lượng,
Trung Đoàn Trưởng là Đại Tá Lê Cầu đă bị
CQ bắt sống. Cộng quân đă chiếm quận lỵ
này vào buổi chiều. Thi hài của vị Tiểu đoàn
trưởng Địa phương quân (các tài liệu
không ghi rơ tên) vẫn c̣n nằm nguyên trước Văn
pḥng Quận Phù Cát. Thay v́ đầu hàng địch quân, vị
tiểu đoàn trưởng này quyết định tự
sát.
Sáng ngày 1/4/1975, nhiều vị trí pḥng thủ
của các đơn vị Quân Lực VNCH tại Khánh Ḥa bị
tấn công. Tại Khánh Dương, Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù
do Trung Tá Lê Văn Phát chỉ huy đă kịch chiến với
4 trung đoàn CSBV (thuộc hai sư đoàn khác nhau). Lực
lượng của Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù gồm có một
tiểu đoàn Pháo Binh và 3 Tiểu Đoàn bộ-chiến
Dù đă giao tranh quyết liệt với các đơn vị
thuộc Sư Đoàn F-10 và SĐ 320 Bắc Việt. Các Tiểu
Đoàn Nhảy Dù đă chống trả dữ dội bất
chấp đạn pháo binh của Cộng quân bắn khá
chính xác. Nhiều vị trí mất rồi được
chiếm lại, rồi lại bị mất, nhiều lần
như vậy nhưng các Tiểu Đoàn thuộc Lữ
Đoàn 3 Dù vẫn cố giữ vững vị trí chiến
đấu.
Trung Đoàn 25/SĐ10CSBV đồng loạt
tấn công vào vị trí cuả TĐ6ND do Trung Tá Nguyển Hủu
Thành làm TĐT, Thiếu Tá Trần Tấn Hoà làm TĐP. Tuyến
pḥng thủ cuả TĐ6ND bị tràn ngập sau đó.
Trung Tá Thành, Đ/Úy Triết,cùng một số quân nhân ND bị
bắt tại trận.
TĐ5ND do Trung Tá Bùi Quyền TĐT và Thiếu Tá Vỏ Trong Em
làm TĐP bị Trung Đoàn 28 CSBV vây hảm và tràn ngập.
Thiếu Tá Vỏ Trọng Em đă hướng dẩn
được khoảng 200 chiến sỉ lui vào rừng,
vượt núi xuyên rừng về Nam, 5 ngày sau toán quân nầy
mới được trực thăng giải cứu bốc
về Phan Rang., một số quân ND khác tháp tùng Thiết
Đoàn M113 về được Dục Mỷ.
Trong t́nh h́nh sôi động và trước
áp lực nặng của Cộng quân, vào lúc 8 giờ 10 phút
ngày 1 tháng 4/1975, Trung Tá Phát tŕnh với Thiếu Tướng
Phú là nếu không có tăng viện, không được cấp
phát thêm đạn dược và hỏa tiễn TOW chống
chiến xa th́ tuyến Khánh Dương sẽ bị Cộng
quân tràn ngập. Tướng Phú yêu cầu Lữ Đoàn 3 Nhảy
Dù cố gắng để chờ quân của Sư Đoàn 22 Bộ
Binh từ Qui Nhơn rút vào cùng với một Trung Đoàn của
Sư Đoàn 23 Bộ Binh được tái chỉnh trang.
Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù đă bị
địch quân bao vây rất ngặt, đă hạ
được 4 chiến xa địch nhưng pḥng tuyến
đă bị lùi xa lại phía sau. Tướng Lê Quang Lưởng
gọi Tướng Phú yêu cầu gởi quân tăng viện
cho LĐ3ND. Ông cũng cố gắng liên lạc với các
nơi khác t́m cách trợ giúp
thêm quân cho LĐ3ND.
Trong ngày nầy Trung Tá Phát gọi xin thêm
viện quân khẩn cấp lần thứ năm và
được Thiếu Tướng Phú trả lời không
c̣n quân để tăng viện và ra lịnh cho LĐ3ND di
chuyển về phía Nam.
Lúc 15.30 giờ, Tướng Phú ra lệnh
cho 2 phi tuần khu trục đến yểm trợ mặt
trận Khánh Dương để giải tỏa bớt
áp lực của địch lên cánh quân Nhảy Dù. Đây là
những trái bom cuối cùng được xử dụng
trên chiến trường Quân Khu 2.
Đến 4 giờ 10 chiều ngày 1 tháng
4/1975, khi đang bay trên không phận Khánh Dương th́
Tướng Phú chỉ liên lạc được với một
sĩ quan của Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù. Tướng Phú
được báo vắn tắt là Cộng quân đă tràn ngập
nhiều vị trí của các đơn vị Nhảy Dù,
tuyến pḥng thủ đă bị cắt nhỏ. Sau đó
cuộc điện đàm đă bị gián đoạn..
Trong khi đó Trung Đoàn 66 CSBV quyết
tâm diệt gọn TĐ2ND do Thiếu Tá Trần Công Hạnh
làm TĐT và Thiếu Tá Nguyển Văn Phương làm
TĐP. TĐ3PBND do Thiếu Tá Nguyển Văn Triệu làm
TĐT và ĐĐ3TS do Đại Úy Nguyển Viết Hoạch
làm ĐĐT. Các đơn vị nầy đang trấn giữ
dọc theo chân đèo Phượng Hoàng th́ bị địch
quân tấn công tràn ngập. TĐ3PBND được linh phá
huỷ một số đại bác 105 ly cơ hửu.
Sau những đợt tấn công biển
người liên tục và ác liệt cuả địch, tuyến
pḥng thủ bị chia cắt ra thành nhiều mảnh nhỏ,
lại không được tiếp tế lương thực
và đạn dược. LĐT/LĐ3ND phải triệt
thoái đơn vị về bải biển dưới chân
ḥn Son và men theo đường bộ về Phan Rang lập
pḥng tuyến mới.
Tính đến sáng ngày 1 tháng 4/1975, khu vực
trách nhiệm của Quân Khu 2 chỉ c̣n lại một phần
tỉnh Khánh Ḥa, tỉnh Ninh Thuận và B́nh Thuận, (quân
khu 2 có 12 tỉnh). Về quân số, ngoài Lữ Đoàn 3 Nhảy
Dù đang bảo vệ pḥng tuyến Khánh Dương, chỉ
c̣n một trung đoàn Bộ Binh và 2 tiểu đoàn Biệt
Động Quân. Tuy nhiên, 2 liên đoàn Địa Phương
Quân của hai tiểu khu Ninh Thuận và B́nh Thuận cùng một
số đại đội biệt lập vẫn c̣n khả
năng tham chiến.
Buổi tối cùng ngày, Trung tá Lê Văn
Phát, Lử Đoàn Trưởng Lử Đoàn 3 Dù cùng Bộ
chỉ huy Lữ đoàn và một phần của Tiểu
Đoàn 5 Nhảy Dù, trên đường rút từ Khánh
Dương ra QL1 không c̣n liên lạc được với
BTL QĐ2 nên liên lạc thẳng về Sài G̣n bằng hệ
thống GRC106 và được lịnh liên lạc với
Tướng Sang để vào pḥng thủ Phi Trường
Phan Rang. Đến ngày 4/4/1975 LĐ2ND được không vận
từ Sài G̣n đến Phan Rang thay thế LĐ3ND và ngày hôm
sau LĐ3ND được phi
cơ bốc về Saigon bổ sung quân số và sẳn sàng
ứng chiến cho Biệt Khu Thủ Đô..
Tài liệu tham khảo
:
- Chiến tranh Việt
- Những Ngày Cuối Của VNCH
, của Cao Văn Viên Bản dịch Việt Ngữ của
Nguyễn Kỳ Phong, nhà xuất bản Vietnambliography 2003.
- Những sự thật chiến
tranh VN 1954 – 1975 của Trung Tướng Nguyễn Văn
Toàn - Đại Tá Lê Bá Khiếu - Tiến Sỉ Nguyễn
Văn
- Cuộc triệt thoái cao nguyên
1975 của Phạm Huấn, tác giả xuất bản
năm 1987 và giữ bản quyền.
- Và phỏng vấn các
chiến hữu Nhay Dù.
Đại Úy Vơ
Trung Tín
Tiểu Đoàn Truyền
Tin SĐND – 714-856-9202
Đại Úy Nguyễn
Hữu Viên
Tiểu Đoàn 3 Nhảy
Dù – 714-724-8933
Chúng tôi rất mong
được đón nhận những ư kiến bổ
chính của các chiến hữu cho những sai sót v́ vấn
đề thời gian đă trên 30 năm và tài liệu tham
khảo hạn hẹp. Điện Thoại: 714-545-0105
email: votrungtin@hotmail.com