Rồi người lính có về không?
(Trích trong Sài G̣n Ngày Dài Nhất)
Duyên Anh
10 giờ 40, mười phút sau lệnh đầu hàng cộng
sản của Dương văn Minh, Đặng Xuân Côn và tôi
ra vỉa hè trước cửa nh́n Sài g̣n chờ đợi
cộng sản vào. Tại sao chưa đánh đă đầu hàng?
Tôi nghe rơ câu hỏi nghẹn ngào đó trong
những ánh mắt ngơ ngác của người Sài g̣n
quanh tôi. Trời hết âm u, nhưng vẫn chưa có
nắng. Vẫn thiếu nắng vàng rực rỡ. Dân Xóm
Lách kéo lên. Lề đường Công Lư, gần nhà tôi
đông nghẹt. Dẫu ḷng ngổn ngang bối rối, tôi
c̣n chút hạnh phúc trên những khuôn mặt buồn
bă của đám dân "vô sản" Xóm Lách. Không một
nụ cười. Khó t́m ra niềm hân hoan. Ngay cả
những người đă truy nă kỹ thân phận ḿnh, sự
nghiệp của ḿnh ṛng ră hai mươi năm Việt
Nam cộng ḥa, thấy chẳng dính líu ǵ tới "nợ
máu" với cộng sản, cũng hồi hộp v́ "biển
máu." Chưa bao giờ tôi thấy, kể từ nhận Sài
g̣n làm quê hương, một cảnh tượng Sài g̣n
năo nề đến thế. Tôi có cảm tưởng Sài g̣n
đang sợ hăi cơ hồ tôi đang sợ hăi, cơ hồ mọi
người đang sợ hăi. Xe cộ ngưng chạy. Những
gia đ́nh có "máu mặt" rút hết vào nhà. Cổng
đóng kín mít. Cửa sổ gác cao he hé mở. Ai đă
nh́n tôi qua ô cửa kính mắt lệ mờ?
Tôi sinh ra ở miền Bắc, thị xă nhỏ bé, êm
đềm Thái B́nh. ấu thơ của tôi, trải dọc theo
hàng cây hồi thấp và vương vấn cùng khắp cầu
Bo. Niên thiếu của tôi lăng đăng vùng trời
Hà Nội. Tôi khôn lớn ở Sài g̣n. Sài g̣n cho
tôi những bước xuống đời cay đắng để tôi làm
cuộc đời tôi Sài g̣n cho tôi t́nh yêu, cho
tôi thi ca, cho tôi tiểu thuyết. Công sinh
không nặng bằng công dưỡng. Sài g̣n đă nuôi
dưỡng tôi. Sài g̣n là mẹ tôi. Mẹ Sài g̣n săn
sóc tôi hai mươi năm. Tôi đă làm ǵ cho Sài
g̣n? Đă làm ǵ, vẫn chưa đủ, vẫn chỉ mới là
cái hữu hạn trong cái vô hạn. Bây giờ, đứa
con phóng đăng ôm gh́ mẹ ḿnh bằng đôi tay
rời ră, nước mắt ṛng ṛng. Đứa con bất lực,
đứa con hèn hạ, đứa con khiếp nhược, đứa con
mải rong chơi nỡ để mẹ ḿnh lạc vào tay thù.
Mà chỉ biết khóc. Mà chỉ rên rỉ Mà chỉ luyến
tiếc hàng me xanh, ghế đá công viên và những
cuộc t́nh phù phiếm. Tôi hiểu những giọt
nước mắt của tôi vô nghĩa, chẳng dám khóc,
chẳng thiết khóc, mà mắt tôi cứ căng mọng và
lệ cứ rơi. Tôi đă biết khóc v́ Sài g̣n, v́
một thành phố kỷ niệm.
Một toán quân xuất hiện. Quân ta. Tôi đếm:
19 người. Mười chín người lính, mười chín
người chiến sĩ, đầu trần, chân đất, quần xà
lỏn, áo thun, máng súng trên vai, mũi chúc
xuống, mặt cúi gầm, lầm lũi bước. Tối hôm
qua, tôi đă thấy quân ta ngang qua đây. Quân
ta và xe tăng. H́nh ảnh người lính sửa xích
tăng đă in vào tiềm thức tôi. Tối hôm qua,
tôi đă thấy tướng Vĩnh Lộc chủ chiến. 10 giờ
30 hôm nay, tôi nghe Dương văn Minh đọc lệnh
đầu hàng. Và, sau lệnh đầu hàng của Dương
văn Minh, tôi lặng người ngắm toán quân
chiến bại. Cảm giác đầu tiên của tôi là ngậm
ngùi. Tôi nhớ một câu thơ của Corneille: "ô
cruel souvenir de ma gloire passée" mà Thế
Lữ cảm hứng viết: "Than ôi, thời oanh liệt
nay c̣n đâu? Thời oanh liệt đâu? Những chiến
tích rực rỡ dội vang sông núi của quân lực
Việt Nam cộng ḥa, những chiến tích làm bàng
hoàng thế giới, làm vỡ mộng xâm lược của
cộng sản, nay c̣n đâu? Tôi không bao giờ
quên người Do Thái đă bầy tỏ công khai với
nhân loại rằng, họ mơ thành người An Lộc.
Tôi vốn không ưa các chế độ, các nhà lănh
đạo, một số tướng lănh bất tài vô học, tham
nhũng của miền Nam sau 1963, nhưng, luôn
luôn, tôi yêu mến và cảm phục quân đội. Chế
độ đă xóa bỏ chế độ, lănh đạo đă hạ bệ lănh
đạo, quân đội tồn tại như quê hương. Bởi v́
quân đội bảo vệ quê hương. Quân đội không
phải là công cụ riêng của chế độ, của lănh
tụ. Một số tướng lănh hèn mạt, v́ quyền lợi
cá nhân, v́ địa vị khốn kiếp, đă bán ḿnh
cho chế độ, cho lănh tụ để bán xương máu của
quân đội và làm nhạt nḥa cái kiêu sa của
người lính. Kẻ bán xương máu của lính nhiều
nhất, kẻ dùng quân đội làm thang lưng leo
lên danh vọng là Nguyễn văn Thiệu.
Bây giờ, Thiệu đă bỏ đi. Cao văn Viên đă bỏ
đi. Vô số tướng lănh đă đào ngũ chạy trốn.
Dương văn Minh đă đầu hàng. Quân đội tiếp
tục chiến đấu. Quân đội sẽ tiếp tục chiến
đấu, nếu Dương văn Minh không hám cái hư vị
"tổng thống miền Nam trung lập" đến nỗi thỏa
hiệp với cộng sản. Tham vọng bằn tiện của
Dương văn Minh c̣n là tham vọng của vài ông
tướng, vài ông nghi sĩ, vài ông dân biểu
"nhất định" ở lại làm Tổng trưởng. Bùi Tường
Huân là một thí dụ. Những người khác đă đi
học tập cải tạo, đă vượt biên sang âu châu,
Mỹ châu th́ xin miễn kể tên, sợ mất ép-phê
chống cộng của quư vị ấy.
Thế giới đă thiếu sự công b́nh tối thiểu để
khắc nghiệt lên án sự tan hàng bệ rạc của
quân đội ta. Họ không thèm quan tâm tới sự
tôn trọng kỷ luật tối đa của quân lực Việt
Nam cộng ḥa. Quân đội không tuân lệnh đầu
hàng của Dương văn Minh mà tuân lệnh đầu
hàng của vị Tổng thống nước Việt Nam cộng
ḥa kiêm Tổng tư lệnh quân lực Việt Nam cộng
ḥa. Quân đội nước nào cũng thế cả, trừ
trường hợp người ta làm cách mạng, làm đảo
chính lật đổ Tổng thống. Tôi yêu quân đội
của đất nước tôi. Tôi không xuẩn ngốc phán
xét quân đội. Tôi có bổn phận ngưỡng mộ quân
đội quốc gia. Và tôi đau đớn nh́n quân đội
của tôi đầu trần, chân đất, quần xà lỏn, áo
thun, máng súng trên vai, mũi chúc xuống,
mặt cúi gằm, lầm lùi bước. ông Nguyễn văn
Thiệu không chứng kiến thảm cảnh này. Các
ông tướng đào ngũ không chứng kiến thảm cảnh
này. Tôi nghĩ các ông ấy chẳng nên nói về
quân đội, nhắc đến quân đội nữa.
Một bà mẹ hớt hơ hớt hái, từ dốc chợ Xóm
Lách, chạy lên đuổi theo toán quân, (tôi quả
quyết quân đội ta không thua trận. Quân đội
ta măi măi chiến thắng, măi măi anh dũng.
Chế độ Nguyễn văn Thiệu thua trận, các ông
tướng đào ngũ thua trận và chính sách Mỹ ở
Việt Nam thua trận). Bà mẹ già ôm chặt lấy
một người lính:
- Mày đi đâu nữa con? Sao không về nhà? Hết
chiến tranh rồi, ḥa b́nh rồi. Về thôi, con?
Người lính cố gỡ nhẹ tay mẹ ḿnh ra:
- Con không thể về được.
Bà mẹ khóc. Bà mẹ khóc tức tưởi:
- Sao vậy? Có lệnh hàng rồi mà.
Người lính lắc đầu:
- Con không thể về được.
Toán quân đă băng qua ngă tư Công Lư - Yên
Đổ. Bà mẹ vẫn níu chặt người con chiến sĩ
lại:
- Mày đă đi đánh nhau bao lâu nay, có được
hưởng ǵ đâu?
Người lính nghẹn ngào:
- Con không thể nào bỏ các bạn con.
Bà mẹ rên rỉ:
- Bỏ hết, bỏ hết đi con, về với má, không
sao đâu.
Người lính gỡ mạnh tay mẹ ḿnh ra:
- Má về đi, con phải theo các bạn con.
Người lính chạy nhanh để bắt kịp các chiến
hữu. Bà mẹ đứng bên đường mắt đẫm lệ, nh́n
theo con ḿnh...
***
- Rồi người lính có về không?
Đó là câu hỏi của kư giả Patrick Sabatier
của nhật báo La libération đă đến tận nhà
tôi ở Ivry sur Seine phỏng vấn tôi để làm số
báo đặc biệt cho ngày 30-4-1985. Tôi đă kể
câu chuyện trên nhằm trả lời câu hỏi "Điều
ǵ c̣n làm ông nhớ Sài g̣n nhất"?
- Tôi không biết, ông Patrick ạ! Sau 6 năm
tù đầy trở về, tôi hỏi thăm người Xóm Lách,
được rơ là bà mẹ c̣n sống, và người con vẫn
biệt tăm...
- Anh ta đi đâu?
- Tôi nghĩ rằng anh ta đi làm cuộc chiến đấu
mới, không cần viện trợ Mỹ, cố vấn Mỹ và
lính Mỹ. Dân tộc tôi cần thiết cuộc chiến
đấu mới mẻ này.
- Tại sao?
- Nó mới đích thực là cuộc chiến đấu của dân
tộc tôi nhằm tiêu diệt chế độ cộng sản, chủ
nghĩa cộng sản để giành lại tự do, dân chủ,
độc lập cho Việt Nam. Cuộc chiến đấu mới của
dân tộc tôi loại bỏ hết tay sai của Mỹ, của
ngoại bang. Như thể, chúng tôi gọi là một
cuộc chiến đấu có chính nghĩa, tuy cô đơn,
lăng mạn nhưng tổ tiên chúng tôi đă lăng
mạn, cô đơn chiến đấu.
- Rất đẹp, rất cao quư.
- Ông ủng hộ cuộc chiến đấu mới của chúng
tôi chứ?
- Vâng, tôi hết ḷng.
Số báo đặc biệt của La libération, một tờ
báo khuynh tả, xuất bản ngày 30-4-1985 viết
về Việt Nam đă như gáo nước lạnh hắt vào mặt
đảng cộng sản và nhà nước xă hội chủ nghĩa
Việt Nam. Số báo này có đăng thêm một đoạn
trong bài thơ Sài g̣n ra đường của tôi trên
trang nhất.
***
19 người lính đi tới đâu, đi về đâu, tôi
không biết. H́nh ảnh bi thảm của họ khiến
ḷng tôi se lại nhưng cũng sưởi ấm tâm hồn
tôi. ít ra, tôi c̣n được tự hào là người Sài
g̣n, người miền Nam. 19 người lính quốc gia
đă anh dũng chiến đấu cho tới phút giây nghe
lệnh đầu hàng. Vẫn 19 người lính này, biểu
tượng của quân lực Việt Nam cộng ḥa bất
khuất, tháo bỏ quần áo Mỹ, giầy nón Mỹ, tiếp
tục chiến đấu sau lệnh đầu hàng. Tôi đă thèm
sống hèn, càng thèm sống hèn hơn. Để nói lên
được cái hào hùng của người lính, cái tâm sự
năo nề của người lính, những con người không
được phép chiến thắng, những con người bị
tước đoạt quyền chiến thắng cộng sản. Thế
giới đă không có hân hạnh nh́n 19 chiến sĩ
Việt Nam. Thế giới đă không có hân hạnh nghe
người lính giă từ mẹ ḿnh lên đường nhập
cuộc chiến đấu mới. Thế giới, cái thế giới
mù ḷa, điếc, ngọng đă bảo chúng ta thua
trận đă miệt thị quân đội chúng ta tan hàng
bệ rạc. Tôi đợi, tôi đă đợi, tôi đang đợi
những kẻ tự nhận ḿnh sống hùng viết những
trang tâm sự của người lính sau 30-4-1975.
Thú thật, tôi đă chai lỳ từ dạo cắm sừng
nhọn vào đầu đề đương đầu với cuộc đời và
người đời. Thế mà tôi c̣n khóc được hôm nay,
khóc như kẻ mau nước mắt nhất. Giống hệt
người mẹ anh lính, tôi cũng mắt đẫm lệ nh́n
theo anh ta.
- Buồn quá hả, Long? Côn hỏi.
- Buồn hơn một chuyện t́nh buồn trong tiểu
thuyết. Tôi nói.
- Nếu mày c̣n sống và có cơ hội viết nhỉ?
- Ở đâu?
- Mỹ.
- Ông mơ mộng hơn cả tôi rồi.
- Sống phút nào mơ mộng phút ấy.
11 giờ, đường Công Lư nườm nượp những người
đầu trần, chân đất, quần xà lỏn, áo thun cắm
cúi rảo bước. Nhiều người chạy. Đó là lính,
là sĩ quan của chúng ta. Họ đă liệng súng
đạn. Họ về nhà ḿnh, nhà thân nhân của ḿnh.
Khuôn mặt họ, sự sợ hăi pha trộn sự phẫn nộ.
Dân chúng hai bên đường im lặng. Không một
nụ cười rè bỉu. Không một ánh mắt khinh khi.
Người ta đă thù ghét chế độ, thù ghét Nguyễn
văn Thiệu và tập đoàn thống tri tôi mọi cùng
đám tướng lănh dốt nát, hống hách nhưng
chẳng bao giờ người ta thù ghét quân đội* .
Chỉ thiếu những tiếng hoan hô nồng nhiệt,
những tràng pháo tay bất tận như những lần
quân ta chiến thắng sau mỗi chiến dịch trở
về thành phố. Tiếng nhạc quân hành, tiếng
hoan hô, tiếng vỗ tay, lúc này, là tiếng vỡ
của trái tim, tiếng nứt của mạch máu, tiếng
rơi của nước mắt. Lúc này, cả thành phố thấy
ḿnh chiến bại, cả thành phố chia xẻ nỗi đau
chiến bại, bởi v́, những kẻ đầu trần, chân
đất, quần xà lỏn, áo thun là anh, là chồng,
là cháu, là em của người Sài g̣n. Của Sài
g̣n. Có phải khi người ta đă quá sợ chết th́
người ta hết biết ḿnh sợ chết? Tôi bỗng
quên nỗi sợ chết của tôi. Hoặc là tôi đă
chết rồi, linh hồn tôi đậu trên chân đất của
người lính t́m về nhà ḿnh. Người lính ấy,
hai mươi năm ṛng ră đứng giữa biên giới
sống chết, hai mươi năm chưa một lần cúi
đầu, nửa tiếng đồng hồ trước vẫn ngẩng mặt
và, lúc này... Tôi hết biết ḿnh sợ chết.
Hơn cả thế, tôi biết ḿnh nên sống hèn,
không nên sống hùng để cùng bị chết hèn lăng
nhách.
- Côn!
- Hả?
- Ông nhớ sau hôm đảo chính 1945 chứ?
- Nhớ.
- Thực dân Pháp đă chạy dài, đă lột bỏ quần
áo, giày vớ, đă chân đất, đội nón mê cắm cúi
bước. Đă bị phát xít Nhật truy lùng.
- Chúng ta đứng bên kia cầu Bo nh́n các ông
Tây kéo xe ḅ chở đất, các bà Đầm khóc sướt
mướt và phát-xít Nhật cười hoan hỉ.
- A, chúng ta đă vỡ lẽ chiến bại và chiến
thắng từ năm mười tuổi.
Chúng tôi trở vào nhà, đóng cổng kỹ lưỡng.
Chuông điện thoại reo vang. Tôi nhấc máy.
- Alô, alô, tôi muốn nói chuyện với Duyên
Anh.
- Chính tôi.
- Phạm Lê Phan đây...
Phạm Lê Phan, nhà văn, nhà thơ, tác giả
nhiều truyện ngắn đăng rải rác trên các tạp
chí Bách Khoa. Chi Đạo từ 1960 là bút hiệu
của thượng sĩ Phạm văn Kiệm, phục vụ tại Cục
tâm lư chiến. Anh ta đă viết thi phẩm Chiến
ca mùa hè mà Phạm Duy phổ nhạc. Chiến ca mùa
hè như những trang quân sử bằng thơ ghi lại
mùa hè đỏ lửa.
- Mày chạy không thoát à?
- Ừ.
- Tao gọi bạn bè, chẳng c̣n thằng nào. May
quá, c̣n mày.
- May cái con c...? Mày chưa về nhà ư?
- Về hả? Tao là thượng sĩ nhưng là chiến sĩ,
hơn cả, tao là kẻ sĩ. Tao đại diện quân lực
Việt Nam cộng ḥa chuẩn bi tiếp xúc với Việt
cộng.
- Cục mày hết người... lớn rồi à?
- C̣n mỗi ḿnh tao. Tao là tân Cục trưởng.
Cục trưởng cút lâu rồi. Cục phó Phan Trọng
Thiện vừa về... nhà.
- Mày cũng nên về đi.
- Tại sao tao lại phải về? Lính văn nghệ
đang chơi nhau dữ dội ở cầu Thị Nghè. Tao
thủ trái lựu đạn, ngồi tại văn pḥng Cục
trưởng Tâm lư chiến thuộc Tổng cục chiến
tranh chính trị của quân lực Việt Nam cộng
ḥa. Chai whisky trên bàn vơi quá nửa rồi.
ông tu chất cay. Bọn nó vào mà tử tế, ông
giao Cục, dở tṛ hỗn láo, ông cho lựu đạn
nổ... Tao sẽ gọi mày sau. Thôi nhé!
Người lính văn nghệ, thượng sĩ Phạm Lê Phan
không muốn cộng sản vào Cục tâm lư chiến như
vào nhà hoang. Anh ta ngồi đợi kẻ thù tới
tiếp thu. Không c̣n cấp bậc và huy chương
nào tưởng thưởng anh ta cả. Anh ta có quyền
về nhà, được phép về nhà ḿnh mà không ai
dám kết tội anh ta đào ngũ hèn nhát. Nhưng
mà "lính văn nghệ đang chơi nhau dữ dội ở
cầu Thị Nghè." Anh ta kiêu hănh nói "tại sao
tao phải trở về"? Sẽ chẳng một ai đủ liêm sỉ
bắt chước Phạm Lê Phan tự vấn ḷng ḿnh "Tại
sao tôi lại đào ngũ”. Tôi ngồi hút thuốc,
chờ điện thoại của Cục trưởng Tâm lư chiến:
Thượng sĩ Phạm văn Kiệm.
XÁC T-54 BÊN KIA CẦU THỊ NGHÈ
quandoivnch080510
"Lính văn nghệ đang chơi nhau dữ dội ở cầu
Thị Nghè". Tôi biết rơ những người lính ấy.
Họ là nhà báo vô danh, là kép cải lương thứ
yếu, là ca sĩ tân nhạc hạng xoàng. Họ c̣n là
thanh niên Chợ Lớn, thanh niên con nhà giàu
sợ hăi chiến trường, được ẩn thân ở Cục Tâm
lư chiến dưới sự "bảo trợ" của tướng bà Cao
văn Viên. Hai hạng người dưới, lương quân
đội lĩnh xong phải cộng thêm tiền gia đ́nh
nộp cho người bảo trợ hàng tháng, chưa kể
khoản tiền nặng ra mắt và được chấp thuận
bảo trợ. Lính văn nghệ cơ hữu của Cục tâm lư
chiến chỉ có bổn phận canh gác giữ an ninh
cho Cục ngày và đêm. Sự canh gác mang tính
cách tŕnh diễn, dù đă học 9 tuần quân sự ở
Trung tâm huấn luyện Quang Trung. Ṿng đai
an ninh của Cục bé nhỏ. Đă có lực lượng bảo
vệ an ninh của Cục an ninh quân đội, của Đài
phát thanh Sài g̣n lo giùm hết. Vậy bên đây
cầu Thị Nghè, kế sát Cục, là nơi lính văn
nghệ canh gác ban đêm để bảo vệ Đài phát
thanh quân đội, ṭa soạn nhật báo Tiền
Tuyến, văn pḥng của các quan văn nghệ...
Nói ra hơi buồn, lính văn nghệ gác cầu, chỉ
nhằm tŕnh diễn tinh thần kiểng và tạo oai
phong cho các quan tâm lư chiến chơi x́-phé,
mạt chược những đêm trực.
Truyện kể về những người lính văn nghệ gác
cầu Thị Nghè sáng 30-4-1975 như sau: Xe tăng
cộng sản vào thành phố Sài g̣n để vô Dinh
Độc Lập bằng hai ngả. Ngả thứ nhất: Từ ngă
tư xa lộ Hàng Xanh, T-54 của cộng sản chia
đôi. Không nhiều ǵ đâu. Có 10 chiếc thôi. 5
chiếc rẽ phải vô Hàng Xanh, qua đường Bạch
Đằng, qua đường Chi Lăng, Vơ Tánh Phú Nhuận,
bọc lên đường Cách Mạng, Công Lư. 5 chiếc rẽ
trái vô Thị Nghè, qua cầu, qua đường Nguyễn
Bỉnh Khiêm, qua đường Thống Nhất. Chiếc thứ
nhất bị lính văn nghệ chặn đánh ở bên kia
cầu. Với súng M- 16, lính văn nghệ đă nhắm
T-54 mà khạc đạn. Lúc ấy, 10 giờ 45 phút,
sau lệnh đầu hàng của Dương văn Minh 15
phút. Lính văn nghệ đă gây cảm hứng cho quần
chúng. Sự phẫn nộ nổi lửa, nhiệt t́nh và
ḷng tự phụ của tuổi trẻ Thị Nghè bốc phừng
phừng. Bất chấp cái chết, thanh niên Thi
Nghè đă viết những trang sử đấu tranh mới
bằng những chai xăng châm lửa ném tới tấp
vào T-54 của kẻ thù. Lửa cháy trên nóc T-54.
Lửa cháy dưới T-54. Lửa cháy xích T-54. Lửa
cháy đàng trước T-54. Lửa cháy đàng sau
T-54. Lửa Thị Nghè bất khuất. Lửa Thị Nghè
của Sài g̣n. Ngọn lửa tiên phong của cuộc
chiến đấu mới. Chiếc T-54 dẫn đầu đứng
khựng. Nó bất động. Năm người bộ đội xe
tăng, công cụ tội nghiệp của cộng sản, đă
chết thảm dính chùm trong một sợi xích khốn
kiếp. Đă chết mà không biết ḿnh bị mê hoặc:
Năm ngón tay trên một bàn tay
Như năm người con cùng một mẹ
Năm ngón tay trên một bàn tay
Không xa rời nhau
Như năm người con cùng một mẹ
Năm người bộ đội trong xe tăng
Như năm ngón tay trên một bàn tay
Như năm người con cùng một mẹ
Không xa rời nhau
Sống bên nhau và chết bên nhau*
Một chiếc T-54 bị bốc cháy. Là thừa thắp
sáng cuộc chiến đấu mới. Là thừa mở mắt thế
giới đui mù. Bốn chiếc sau phải dừng lại,
ngơ ngác. Kẻ thù hoảng sợ. Nó hung hăn khạc
đạn. Nó trấn áp. Nó vất vả qua cầu Thị Nghè.
Hà Nội phải hiểu họ không có đại thắng. Bởi
v́, theo Ngô Khởi, chiếm được đất mà không
chiếm nổi ḷng người th́ không bao giờ chiến
thắng cả. Xác chiếc T-54 nằm nhục nhă bên
kia cầu Thị Nghè trọn ngày 30-4 và những
ngày kế tiếp là biểu tượng bất hủ của lịch
sử ṇi giống và của quân sử Việt Nam cộng
ḥa.
Duyên Anh
1986
|