QUÂN PHỤC, CẤP HIỆU, HUY HIỆU, HUY CHƯƠNG TỪ
QUÂN ĐỘI QUỐC GIA ĐẾN QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG H̉A
Nguyễn Đ́nh Phúc
Lời Giới Thiệu:
Nhân dịp tưởng niệm ngày Quốc Hận 30.4.2002, ông Nguyễn
Đ́nh Phúc tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Ban
Đốc Sự Khóa 11, nguyên Phó Tỉnh Trưởng Phước Tuy, hiện
cư ngụ tại Vancouver BC, Canada, đă có nhă ư sưu tập gửi
đến độc giả tài liệu đặc biệt về huy chương, cấp hiệu
của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Chúng tôi xin cảm tạ ông
Nguyễn Đ́nh Phúc và xin giới thiệu cùng quư độc giả.
Sau 30.4.1975, chủ quyền đất nước mất
vào tay cộng sản (việt cộng và cộng sản Nga, Hoa). Chánh
Quyền và Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa không c̣n nữa. Ngày
nay dù phải xa quê hương, hoàn cảnh đổi khác nhưng lư
tưởng, chánh nghĩa người Chiến Sĩ một đời theo đuổi vẫn
c̣n đó, Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm vẫn c̣n đó, Quê
Hương-Dân Tộc vẫn c̣n đó. Con đường tranh đấu hôm nay dù
mang một h́nh thái khác xưa nhưng mục tiêu vẫn nhằm
tranh đấu cho nền Độc Lập Dân Chủ Tự Do thực sự cho Hạnh
Phúc, Thịnh Vượng muôn đời của toàn dân. Một điều khẳng
định, chúng ta không bao giờ quên được Tổ Quốc, Đồng Bào
v́ khi vừa nghe tin những Quần Đảo Hoàng Sa, Trường Sa
hay mới đây Ải Bắc, Bản Giốc...vừa bị ‘’bạo quyền cắt
đất cầu phong’’ hay những tài nguyên thiên nhiên bị cướp
đoạt, dâng hiến... tức khắc tim ta nghẹn ngào, muốn đứng
vùng lên...Điều này chứng tỏ chúng ta vẫn măi măi là
Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Ḥa.
Ngày mai, khi công cuộc tranh đấu dành
lại được chủ quyền từ tay cộng sản cho toàn dân, nền Đệ
Tam Cộng Ḥa được thiết lập, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa
được tái tổ chức th́ câu chuyện về quân phục, cấp hiệu,
phù hiệu...hôm nay chẳng là câu chuyện phiếm, cũng một
trong trăm ngàn tài liệu cần đến.
Từ hơn 2000 năm trước, Đức Khổng Tử đă
nói đến tầm quan trọng của nhung phục, đại ư Ngài dậy:
‘’Người tráng sĩ tự ḿnh chưa đủ oai dũng khi lên yên
chiến mă nếu như thiếu nhung y giáp trụ, thiếu cờ hiệu,
cờ lệnh...’’ Bài viết xin được các Chiến Hữu, Độc Giả bổ
sung, tha thứ v́ hầu như hoàn toàn dựa vào trí nhớ giới
hạn, nhận xét cá nhân. Chỉ xin được xem như câu chuyện
‘’lính kể lính nghe’’ trong những ngày bị cấm trại, cấm
quân hay phép cuối tuần bị cháy.
Ngay khi Hiệp Ước Vịnh Hạ Long ngày
5.6.1948 được kư kết giữa Đại Diện chánh phủ Pháp và
Việt Nam dưới sự chứng kiến của Quốc Trưởng Bảo Đại,
chánh quyền Quốc Gia ra đời. Nước Việt Nam được Độc Lập,
Thống Nhất nhưng vẫn c̣n nằm trong Liên Hiệp Pháp. Quân
Đội Quốc Gia ngay sau đó được thành lập nhưng thực tế
mới chỉ là một lực lượng quân sự, bán quân sự chiến đấu
chống Việt Minh (cộng sản) bên cạnh quân đội liên hiệp
Pháp. Cho đến những năm đầu thập niên 50. Bộ Tổng Tham
Mưu Quân Đội Quốc Gia vẫn c̣n nhiều sĩ quan Pháp làm
việc, nhiền đơn vị do sĩ quan, hạ sĩ quan Pháp chỉ huy,
quyền chỉ huy tối cao c̣n thuộc Bộ Tổng Tư Lệnh Pháp và
những Secteur, Sous-secteur (Tiểu Khu, Chi Khu Chiến)
của Pháp tại địa phương. Sau đó một số Khu Vực mỗi lần
được trao trách nhiệm lại cho Quân Đội Quốc Gia như
những thí điểm. Thời gian đó, tất cả văn thư, danh xưng
c̣n dùng Pháp ngữ từ État Major Général cho đến S. P (Secteur
Postal) thay v́ Bộ Tổng Tham Mưu hay K.B.C Trong hoàn
cảnh như vậy nên quân phục, cấp hiệu, phù hiệu...tương
tự như quân đội Pháp.
Trên toàn lănh thổ có 4 Quân Khu: Đệ
Nhất Quân Khu (miền Nam). Đệ Nhị (miền Trung). Đệ Tam (miền
Bắc). Đệ Tứ (Hoàng Triều Cương Thổ/Sơn Cước). Lực lượng
chính yếu gồm các Tiểu Đoàn B.V.N (Bataillon Vietnamien),
Tiểu Đoàn Nhảy Dù...Bên cạnh, chánh quyền địa phương cấp
Phần, đứng đầu bởi Vị Thủ Hiến có tư cách pháp nhân
riêng, ngạnh sách riêng, quân đội riêng như Bảo Chính
Đoàn (Bắc). Việt Binh Đoàn (Trung), Vệ Binh Hàng Tỉnh
(Nam), Vệ Binh Sơn Cước, Ngự Lâm Quân và những lực lượng
giáo phái Cao Đài, Ḥa Hảo, B́nh Xuyên...
QUÂN PHỤC
Quân phục gồm lễ phục, quân phục làm việc,
ra phố và chiến phục. Vào những năm đầu, quân phục chưa
quy củ, luộm thuộm v́ ngay cả quân phục quân đội Pháp
cũng không hơn. Nhiều Quân Nhân mặc chenise vàng, quần
trận (loại có túi rộng ngang đầu gối). Đến khi Quân Đội
Quốc Gia chính thức thành lập (giữa 1950, thời Thủ Tướng
Trần Văn Hữu và Tổng Trưởng Quốc Pḥng Phan Huy Quát),
quân phục mới được quy định tề chỉnh hơn.
Lễ phục Sĩ Quan ngoài màu trắng, có màu
xanh đậm (mùa lạnh), mũ casquette. Lễ phục màu nào th́
phần trên mũ phù hợp theo (trắng, xanh không kể màu đỏ
dành cho Hiến Binh). Quân phục làm việc tại các Pḥng,
Sở, ra khỏi Doanh Trại (số 2) ‘’gabardine’’ hay ka-ki.
‘’béreto’’ cùng màu vàng xám (trừ Nhảy Dù đỏ, Thiết Giáp
đen). Khi hành quân đều mặc đồ trận (treillis) màu xanh
‘’olive’’ riêng Nhẩy Dù thêm áo sô (saut) trông rất oai
hùng.
Tới thời Đệ Nhất Cộng Ḥa Đại Lễ Phục Sĩ
Quan rất chỉnh tề, áo trắng dài, cổ cao cúc (nút) vàng,
thắt lưng đen ‘’casquett’’ trắng, quần sậm, có sọc như
các Quân Trường, có cả dạ phục. C̣n Tiểu Lễ Quân Phục số
2 màu vàng, chiến phục gọn ghẽ hơn xưa.
Nhớ lại sau Hiệp định đ́nh chiến 1954,
Quân Nhân ra Phố mặc đồ tác chiến sẽ bị Tuần Cảnh bắt
giữ ngay. Nhưng thời gian sau, chiến tranh trở lại, quân
phục vàng lần lần vắng bóng ngoại trừ Sinh Viên hay Khóa
Sinh Quân Trường.
Chuyện trang phục của chúng ta ngày trước
có nhiều điều rất trái mắt do sự tùy tiện nhất là từ cấp
Tướng Lănh. Một Đại Tướng v́ gốc Dù nên mặc Đại Lễ thay
v́ đội casquett, ông vẫn ‘’sính’’ đội beret đỏ. Một Vị
Lănh Đạo Quốc Gia, v́ gốc Phi Công ‘’anh dũng muôn đời’’
nên cứ diện phi bào với 2 sao để cho Tướng 3, 4 sao phải
nghiêm chào. Thêm một Tướng biệt phái sang Hành Chánh
thường mặc đồng phục bốn túi kiểu cán bộ, gặp Tổng Thống
hay Thủ Tướng lại móc ngay 3 sao trong túi đeo lên ve áo
thoải mái cứ như móc hộp quẹt zippo. Có một Đô Đốc, quần
lại thích túm (gom) ống trông không giống một ai trong
Quân Chủng...Vẽ lại vài ba h́nh ảnh mục đích cho bài
viết thêm vui thôi v́ thời phong kiến đă có câu ‘’luật
không áp dụng với người trên’’ nên nhằm nḥ ǵ chuyện
nhỏ, các vị tùy tiện có chi đâu.
Riêng về quân phục, chúng ta phải học ở
Quân Đội Hoa Kỳ ‘’ngoài quy định từ Thống Tướng tới Binh
Sĩ, không ai đeo thừa, mang thiếu một quy định ǵ so với
đồng ngũ đồng cấp’’. Sự đồng nhất triệt để tới cả mức
gọng kính cận, đồng hồ đeo tay cũng không khác nhau.
Chắc các Chiến Hữu c̣n nhớ chuyện một Vị Tướng Hoa Kỳ,
ông đă đeo một huy chương trên đó có thêm ngôi sao nhỏ
bị người chê sai, người bên vực đúng nhưng ông vẫn tự
sát v́ sự kiện này.
Tất nhiên quy tắc nào cũng có ngoại lệ
hay linh động v́ mục đích chung nào đó. Chẳng hạn trên
chiến phục ngay cấp hiệu cũng phải mang cách thức ngụy
trang, nhưng trong dịp Quốc Khánh, kỷ niệm Quân
Lực...các Đơn Vị mặc chiến phục diễn hành vẫn theo đầy
đủ cấp hiệu, dây biểu chương, huy chương tḥng...để thêm
oai dũng khác ngày thường.
Khi mới thành lập, chúng ta c̣n đi giầy
đinh (có đinh ở dưới) gọi giầy ‘’săng đá’’ (do chữ Pháp
Soldat-Quân Nhân), bước đi gây tiếng cồm cộp. Những toán
hầu kỳ, chào kính c̣n mang ghệt (guêtre) trắng bằng da
hay vải bố để túm ông quần lại cho gọn, đẹp. Hành quân
dùng giầy bố. Sau này dùng giấy sô (botte de saut) cột
dây, có nhiều loại khác nhau. Những Quân Nhân nào diện
c̣n cắt ống giầy gắn fermeture, nhưng khi đổi giầy có
thể bị phạt v́ làm hư quân trang. Giống như một Quận
Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng v́ nhu cầu an ninh đă sơn xe
jeep mầu dân sự, khi đổi xe đă phải phạt và đền tiền sơn
lại như màu nguyên thủy.
Những năm sau này, thêm nhiều Quân Binh
Chủng được thành lập nên ngoài chiến phục của Bộ Binh có
nhiều kiểu và màu sắc đặc thù riêng rất oai hùng như phi
bào (Không Quân) quân phục trắng (Hải Quân) Dù, Thủy
Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân...Đây cũng là một trong
những nét khác biệt của từng màu cờ sắc áo. Sau 1975
trong tù cải tạo, anh em chúng ta nhiều khi vẫn được mặc
hoặc chính việt cộng phát quân phục của chúng ta nhưng
bắt phá bỏ túi, thay đổi kiểu nhưng tuyệt nhiên không
cho mặc hay phát các đồ bông. Sau này mới hiểu chúng vẫn
rất rét, bị ám ảnh khi thấy h́nh bóng các thiên thần mũ
đỏ, cọp biển...chẳng khác nào theo Bảo Ninh trong Nỗi
Buồn Chiến Tranh ‘’nhiều cán binh sống sót về lại miền
Bắc không dám đứng dưới quạt trần v́ c̣n ngỡ cánh quạt
trực thăng săn đuổi’’.
Ngoài ra mũ của chúng ta cũng thay đổi
rất nhiều. Xưa kia mũ ‘’béret’’ ka ki vải rất rộng (miền
Bắc gọi là mũ bánh đa), hoặc đen, phía gáy có tua vàng
đỏ. Mũ ‘’calot’’ xám, đen trên đỉnh xẻ đôi có hai màu
xanh đỏ lớn hơn Không Quân. Mùa nắng đội chapeau de
brousse mũ vải cứng rộng vành (hơi giống Quân Nhân Úc)
một bên vành mũ bấm gọn lên để khỏi vướng khi vác súng.
Sang thời Cộng Ḥa ‘’béret’’ xám đội theo quân phục số
2. Trên mũ có huy hiệu tṛn khác màu tùy mỗi hàng Binh
Sĩ, Hạ Sĩ Quan, Sĩ Quan. Sau đảo chính 1963, thường mặc
‘’tréllis’’ nên mũ vải lúc đầu cứng (như képi) sau như
‘’casquette’’ có múi, nhiều Tướng Tá ‘’làm dáng’’ tay mũ
cũng gắn nhành dương liễu như casquette đại lễ. Mũ sắt
hai lớp dù nặng nhưng rất an toàn, có lưới gài lá ngụy
trang nhưng lại dễ bị vướng, móc. Bao bằng vải rằn ri
hay vẽ lên như Biệt Động Quân cũng tiện.
Bảng tên được gắn liền trên chiến phục
hay đeo bên nắp túi áo phải quân phục số 2 không kể cấp
hiệu, phù hiệu được mang đầy đủ trên quân phục như sẽ đề
cấp phần sau. Chỉ riêng việc này đă làm mất tính bí mật
quân sự. Địch dễ dàng nhận diện hay trên xác Tử Sĩ để
lại chiến trường đủ t́nh trạng quân vụ (Đơn Vị, cấp
bậc...) ngoài những cáo phó, chia buồn góp vui đầy trên
báo chí. Ngoài cổng Doanh Trại ghi đầy đủ hệ thống
thuộc, Đơn Vị đồn trú. Trong khi việt cộng đến khi chiếm
trọn miền Nam trước cổng chỉ có tấm bảng ‘’doanh trại
quân đội nhân dân’’. Như vậy, bài học vỡ ḷng che dấu,
ẩn nấp để ‘’ta thấy địch, địch không thấy ta’’ trở thành
hài hước.
CẤP HIỆU
Cấp hiệu là quy ước có h́nh thức tuy nhỏ,
đơn giản nhưng biểu lộ quyền chỉ huy tuyệt đối với thuộc
cấp ‘’Huynh đệ chi binh’’ là mối tương quan trong đời
Quân Ngũ, nhưng trong hệ thống quân giai, chỉ khác một
vạch, màu sắc bạc vàng đủ cho thuộc cấp phải nghiêm cứng
người, đủ để tuân lệnh nhẩy vào lửa đạn.
Từ khi thành lập Quân Đội Quốc Gia, cấp
hiệu được gọi bằng lono (galon trong Pháp ngữ) hoàn toàn
như quân đội Pháp cho tới thời Cộng Ḥa được thay thế
hơi theo kiểu Mỹ. Nhiều buổi tổ chức đốt bỏ cấp hiệu cũ,
cùng thời với việc đốt bỏ những bộ bài, bàn đèn á phiện
sách báo khiêu dâm...Đây là sự kiện thiếu tế nhị trong
chánh sách ngoại giao tiếp theo việc đoạn giao với Pháp.
Trước đó, hoàn toàn như Pháp nên cấp hiệu
đều dùng vạch vàng thẳng trên ‘’lon’’ Sĩ Quan, ngoại trừ
Thiết Giáp Binh (Kỵ Binh) dùng vạch trắng. Từ ‘’adjudant’’
(ông Ách) đều vạch thẳng ngân tuyến, kim tuyến có sợi
chỉ đỏ chạy dọc, ‘’aspirant’’ (Chuẩn Úy) 2 sợi chỉ đen
ngang, lên tới hết cấp Tá vẫn dùng vạch. Tiếng Việt lúc
đó chúng ta thường gọi Quan Một, Quan Hai...tới Quan Tư,
vạch thứ tư cách xa để phân biệt từ cấp này là Sĩ Quan
cao cấp (Officier Supérieur), dưới đó chỉ là Sĩ Quan cấp
thấp (Officier Subalterne). Trên Quan Tư có khoanh trắng
(Lieutenant Colonel) với 5 vạch (3 vàng 2 trắng) và Quan
Năm khoanh vàng (Colonel) 5 vạch đều vàng. Cấp Tướng
mang sao (từ 2 sao trở lên). Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ mang
vạch h́nh chữ V ngược vàng, đỏ nơi cánh tay.
Người viết không rơ các danh xưng Tá, Úy
do ai trong Bộ Quốc Pḥng hay Tổng Tham Mưu đặt ra,
riêng danh xưng các cấp Hạ Sĩ, Trung Sĩ, Thượng Sĩ xuất
xứ từ Lực Lượng Bảo Chính Đoàn (Bắc Việt) đặt ra trước
cùng lúc với các Hoa Mai của cấp Sĩ Quan Bảo Chính Đoàn
trong khi Sĩ Quan Chính Quy vẫn c̣n đeo ‘’lon’’ hoàn
toàn như sĩ quan Pháp. Xin được mở dấu ngoặc nói thêm về
cấp hiệu của Bảo Chính Đoàn.
Bảo Chính Đoàn là lực lượng quân sự cấp
Phần, trực thuộc Thủ Hiến. Ngay khi thành lập cấp chỉ
huy hoàn toàn Việt Nam, không có một hạ sĩ quan hay sĩ
quan Pháp nào. Tư Lệnh Phó Bảo Chính Đoàn (có lúc gọi là
Phó Giám Đốc) là Đốc Quân Đoàn Chí Khoan (sau này là Đại
Tá, Phụ Tá Tổng Trưởng Phát Triển Sắc Tộc). Ông Đoàn Chí
Khoan có thể coi như người soạn thảo sơ đồ tổ chức Bảo
Chính Đoàn, tất nhiên có phần quân phục, cấp hiệu, phù
hiệu. Có thể ông được ảnh hưởng tổ chức Quân Đội Trung
Hoa Quốc Dân Đảng và tổ chức hành chánh nên dùng các
danh xưng Đốc Quân và Phó Đốc Quân cho Sĩ Quan cấp Tá và
Úy. Mỗi cấp có 3 hạng: Phó Đốc Quân hạng ba, hạng hai và
hạng nhất (tương đương Thiếu, Trung, Đại Úy) và Đốc Quân
cũng có ba hạng. Trên hết là Chánh Đốc Quân (như cấp
Tướng, nhưng chưa có ai được phong). Tư Lệnh Biệt Chính
Đoàn đầu tiên là Đốc Quân hạng 2 Hoàng Văn Tỷ (sau này
là một trong 6 Đại Tá đầu tiên của Quân Đội Quốc Gia).
Tư Lệnh Phó là Đốc Quân hạng 3 Đoàn Chí Khoan. Giám Đốc
Trường Sĩ Quan Biệt Chính Đoàn là Đốc Quân hạng 3 Linh
Quang Viên (sau thăng Trung Tướng Quân Lực Việt Nam Cộng
Ḥa).
Đốc Quân và Phó Đốc Quân đều đeo hoa mai
bạc (hạng 3 một bông...hạng 1 ba bông) nằm ở vạch ngân
tuyến. Cấp Đốc Quân thêm hai sợi ngân tuyến chạy kèm
song song hai bên. Kể cả hàng Binh (Bảo Chính Viên) trở
lên đều đeo trên vai, nhưng là sợi ngân tuyến, theo h́nh
chữ V. Điểm đặc biệt là danh xưng Hạ Sĩ, Trung Sĩ và
Thượng Sĩ được đặt ngay thời đó và sau này vẫn c̣n được
dùng. Riêng danh xưng Đốc Quân, Phó Đốc Quân không được
duy tŕ v́ không thuận tiện (nếu chỉ gọi Đốc Quân sẽ
không rơ cấp bậc, gọi thêm hạng lại quá nhiêu kê).
Nhân đây, xin nói về truyền thống, ư
nghĩa cấp hiệu. Từ xưa có 3 Quân Binh Chủng đeo cấp hiệu
theo truyền thống quốc tế v́ thường có tầm hoạt động
ngoài lănh thổ, phải theo nhiều luật lệ hàng hải, hàng
không gồm Hải Quân, Không Quân, Thiết Giáp Binh và Lực
Lượng Cảnh Sát. Không hiểu lư do nào, khi quy định lại
cấp hiệu theo kiểu Mỹ chỉ riêng Hải Quân được giữ lại.
Trái lại Cảnh Sát đổi cấp hiệu theo như Quân Đội. Trước
đây Ngành Cảnh Sát đă có tổ chức quy củ với những ngạch
trật như Thanh Tra, Quận Trưởng, Biên Tập Viên, Chánh
Phó Thẩm Sát Viên...đến khi Tướng Phong sang chỉ huy,
mang theo rất nhiều Sĩ Quan và có lẽ tiện việc sắp đặt
chức vụ, đă dùng theo cấp bậc Quân Lực Việt Nam Cộng
Ḥa, bỏ quy chế, cấp hiệu cũ, không quan tâm đến thời
gian huấn luyện, thâm niên công vụ. Một Biên Tập Viên
cùng tŕnh độ văn hóa và thời gian thụ huấn như một
Chuẩn Úy Bộ Binh nhưng khi tốt nghiệp mang ngay cấp Đại
Úy Cảnh Sát Quốc Gia. Ngoài ra dù mang cấp bậc như Quân
Đội. Cảnh Sát Quốc Gia cũng không có thẩm quyền ǵ với
Quân Nhân lại tạo cho dư luận, cộng sản dễ chỉ trích
quân phiện, cảnh sát trị trong khi chính bộ máy ḱm kẹp,
phá hoại của việt cộng có tới cấp bộ công an.
Sau năm 1955, trước khi cấp hiệu các lực
lượng quân sự địa phương chính quy hóa. Bảo An Đoàn mang
cấp hiệu riêng như Bảo Chính Đoàn trước kia. V́ thiếu
thống nhất nên dễ ngộ nhận nhất là khi xuất ngoại. Thiếu
Úy Bảo An đeo bông hoa thị bạc 6 cánh, trong vừa giống
hoa mai, vừa giống sao, lại thêm hai nhành lúa ôm hai
bên trông như hai nhánh thiên tuế. Khi du học, du hành
quan sát Sĩ Quan Đồng Minh kể cả cấp Tá cũng như Huấn
Luyện Viên, một điều Yes Sir hai điều cũng yes, General
với Thiếu Úy và c̣n chào kính túi bụi v́ nghĩ thầm ít ǵ
cũng Chuẩn...Tướng.
Trở lại cấp hiệu Sĩ Quan thời Đệ Nhất
Cộng Ḥa, cấp Tá mang mai bạc lớn hơn, Úy mang mai vàng,
nhưng từ xa khó nhận ra, nên sau này thêm hàng lá thiên
tuế kèm theo mai bạc cấp Tá. Cũng từ thời Tướng Nguyễn
Khánh, lập thêm cấp Chuẩn Tướng (một sao) v́ muốn cho
Hội Đồng Tướng Lănh đông hơn, nhiều hậu thuẫn, tạo thành
lớp ‘’Tướng trẻ’’ dễ dàng khống chế lớp ‘’Tướng không
trẻ’’ hoặc để áp lực cho đi ‘’Đại Sứ’’. Đó là thời
‘’Loạn Tướng’’. Đề cập đến loạn Tướng thiết nghĩ phải
nói đến quy chế Tướng Lănh một cách đúng truyền thống
quốc tế. Khi đă bước lên hàng Tướng, cấp bậc có tính
cách trọn đời ngay cả khi đă bỏ binh quyền, đời quân
ngũ. V́ vậy không có thể gọi là Cựu Trung Tướng, Cựu
Thiếu Tướng...mà là Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Cựu
Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa... Hoặc khi họ đáo hạn tuổi
giải ngũ, dời bỏ binh quyền cũng vẫn dùng cấp bậc Tướng
Lănh, chỉ thêm chữ hồi hưu như General Westmoreland
(Ret). Quân Đội vẫn phải đăi ngộ Tướng Lănh với đầy đủ
quy chế, nghi lễ, lương bổng, quân phục, cấp hiệu, Tướng
Kỳ, Tùy Viên, Hộ Tống, chào kính...ngoại trừ binh quyền.
Ngoài ra tưởng cũng nên nhắc đến một số
cấp hiệu, phù hiệu của các Lực Lượng Đồng Minh tham
chiến tại Việt Nam trước kia. Ngoài những ǵ theo truyền
thống quốc tế như mỏ neo với Hải Quân, cánh bay Không
Quân, chữ thập Quân Y...có những đặc thù riêng như Khối
Liên Hiệp Anh (Úc, Tân Tây Lan...) với Vương miện
(Crown). Tháiland trọng bảo tháp (Phật) dành cho hàng
Tướng, sao cho cấp Tá, Úy.
Nhiều người khen quân phục Hoa Kỳ đẹp,
quy củ nhưng cấp hiệu không ư nghĩa. Thật ra Hoa Kỳ lấy
biểu hiệu từ thấp lên cao, cấp Thiếu và Trung Úy đeo
vạch vàng, trắng và Đại Úy 2 vạch trắng là kim loại c̣n
nằm sâu dưới đất. Lên cấp Tá trên cao hơn với lá vàng,
trắng. Đại Tá đeo h́nh chim đại bàng, tung cánh trời cao,
đầu đàn...(thường dùng danh hiệu đại bàng) Ngôi sao sáng
hàng Tướng Lănh mang biểu hiệu cao tột đỉnh, dẫn đạo chỉ
huy.
Ngược lại thời gian mang cấp hiệu theo
kiểu Pháp kể cả lúc sau này, cấp hiệu đeo trong đại lễ
phải đầy đủ, tiểu lễ và thường ngày đeo giản lược trên
vai áo. Hàng Trung Sĩ trở xuống đeo h́nh chữ V ngược nơi
tay áo. Có tài liệu cho đó là tượng trưng cấp chỉ huy
gánh vác trọng trách (Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan cao cấp), c̣n
hàng Hạ Sĩ Quan cấp thấp tuy chỉ huy nhưng thẩm quyền
nhỏ hẹp. Cấp hiệu thời đó không đeo trên ve áo như sau
này, trái lại quân đội Pháp c̣n quy định những Tướng
lănh cao cấp lại được phong thêm các cấp hiệu Binh Nhất,
Hạ Sĩ, Trung Sĩ danh dự mang trên ve áo hay tay áo. Như
Đại Tướng De Latter, được đeo thêm cấp Hạ Sĩ Nhất danh
dự. Trung Tướng Cogny thêm cấp Hạ Sĩ. Đây là quy định
chính thức như chức Huyện, Phủ Hàm thời trước, không như
cách vui chơi khi có người gọi một ca sĩ là Hạ Sĩ danh
dự. Chúng ta có một danh từ chỉ chức vụ rất đặc thù là
chức Tư Lệnh cho cấp chỉ huy các Đại Đơn Vị (commandant
en chef/commander in chief) thay v́ Chỉ Huy Trưởng.
Nguyên nghĩa ‘’Tư Lệnh’’ nói lên sự toàn quyền ban phát
lệnh thay v́ chỉ chuyển lệnh từ cấp trên xuống như cấp
Chỉ Huy Trưởng.
HUY HIỆU HUY CHƯƠNG
Huy hiệu, phù hiệu mang trên quân phục
chỉ rơ Đơn Vị trực thuộc. Nhiều khi c̣n dùng thêm khăn
quàng trong các buổi lễ để rực rỡ cho mầu cờ sắc áo,
hoặc các ‘’nơ’’ màu để dễ nhận bạn.
Thời phôi thai, Quân Đội mới có đến cấp
Tiểu Đoàn, nên phù hiệu đeo dưới nắp túi ngực phải, bằng
kim loại chế tạo từ Pháp. Ngoài ra c̣n được làm nhỏ để
gắn trên bút nịt, vật dụng tùy thân (hộp quẹt, hộp
thuốc...). Các Quân Trường Vơ Khoa Thủ Đức, Liên Quân Đà
Lạt...cũng có phù hiệu riêng, nhiều khi đeo ngay trên
cầu vai (épaulette). Sau này khi thành lập được các Đại
Đơn Vị, Binh Chủng...phù hiệu vải đeo cánh tay trái trên
cao, đằng trước ngực dành đeo phù hiệu Đơn Vị nhỏ. Trên
quân phục, chúng ta c̣n đeo thêm các bằng chuyên
môn...như bằng Rừng Núi Śnh Lầy, bằng Dù, cánh Bay...
Quân Đội có nhiều h́nh thức tuyên dương,
ban thưởng cho toàn Đơn Vị, cá nhân như các dây biểu
chương, huy chương. Trước kia, chúng ta chỉ có Croix de
guerre, Médaille d’honneur...của Pháp, nhiều loại được
lănh phụ cấp hàng tam cá nguyệt. Sang thời chính thể
Quốc Gia, Quốc Trưởng ban thưởng Bảo Quốc Huân Chương là
huy chương cao trọng nhất với 5 hạng, trên mặt Bảo Quốc
chạm nổi hàng chữ Tổ Quốc Tri Ân. Thể thức cấp thưởng
rất khó khăn đ̣i hỏi những chiến công hiển hách, thành
tích lớn lao đối với Tổ Quốc, Dân Tộc. Nghi thức trao
gắn rất long trọng, Quân Nhạc cử điệp khúc Quốc Thiều,
người được ân thưởng tay nâng Huân Chương để Nguyên Thủ
Quốc Gia chào kính. Nếu phạm trọng tội, trước khi truy
tố phải có sắc lệnh thu hồi. Nếu khinh tội có thể được
miễn tố hoặc giảm khinh. Đối với hạng nhất, nếu tôi nhớ
không lầm chỉ có 3 người sinh thời được ban thưởng là
Bảo Long, Hoàng Thái Tử kiêm Tư Lệnh Danh Dự Ngự Lâm
Quân. Kế là Đại Tướng De Latter, Cao ủy kiêm Tổng tư
lệnh quân đội Liên hiệp Pháp tại Đông Dương, nhờ chiến
thắng Vĩnh Phúc Yên 1951. Sau này Thống Tướng Lê Văn Tỵ
khi gần mất mới được phong Thống Tướng và ân thưởng Đệ
Nhị Đẳng. Đại Tướng Đỗ Cao Trí chỉ được truy thăng Đại
Tướng và truy tặng Đệ Nhất Đẳng sau khi tử trận. Anh
Dũng Bội Tinh, chạm chữ Quốc Gia Lao Tường với Nhành
Dương Liễu và sao vàng, bạc, đồng do sự khác biệt giữa
Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan, Binh Sĩ về chiến công và phạm vi
tuyên dương trước Quân Đội hay chỉ trước cấp Lữ Đoàn, Sư
Đoàn.
Ngoài ra, sau này cùng với sự lớn mạnh
của Quân Đội, chiến trận gia tăng rất nhiều huy chương
thuộc các Quân Binh Chủng được ban thưởng. Quân Công,
Quân Phong, Quân Vụ Bội Tinh, Lục Quân Huân Chương, Hải
Vụ, Phi Vụ, Chiến Thương...chưa kể huy chương của nhiều
Quốc Gia, Quân Lực Đồng Minh cũng trao tặng.
Riêng về dây biểu chương có ba hạng mang
tên màu:Anh Dũng, Quân Công, Bảo Quốc và trên hết là dây
biểu chương màu tam hợp đ̣i hỏi toàn thể Đại Đơn Vị phải
lập chiến công và ít nhất phải được tuyên dương công
trạng cấp Quân Đội từ ba lần trở lên.
Huy chương khi được ban thưởng, ngoài văn
thư có một bằng treo, không kể huy chương (tḥng, ngắn).
Khi mang huy chương cũng phải tuân theo các cách thức
quy định. Huy chương cao hơn phải đeo từ trong phía ngực
trái ra ngoài, hàng trên xuống dưới. Riêng Bảo Quốc Huân
Chương Đệ Ngũ và Đệ Tứ Đẳng dù thấp nhất trong Bảo Quốc
nhưng cũng phải xếp trên cùng. Đệ Tam đeo dây ṿng qua
cổ, Đệ Nhị một bên cạnh sườn và Đệ Nhất vắt ngang vai.
Trong Tiểu Lễ, huy chương mang dưới dạng đơn giản (chỉ
có phần cuống).
Với dạ phục mang huy chương tḥng nhưng
thu nhỏ. Các dây biểu chương cũng thu lại bằng như một
huy chương ngắn, đóng khung vàng, đeo riêng trên cùng.
Ngoài ra trên Quân Kỳ các Quân Binh Chủng, Đại Đơn Vị,
cũng sẽ gắn các dây biểu chương và huy chương đă được
ban thưởng.
Với huy chương của các Quốc Gia Đồng Minh,
phải có sự chấp thuận trước hoặc phải được hợp thức,
Quân Nhân đương sự mới được mang.
Các cấp hiệu, huy hiệu, phù hiệu...v́
không được tuyển chọn kỹ lưỡng nên thường hay thay đổi,
gây tốn kém cho Quân Nhân, chỉ có lợi cho các nhà sản
xuất, buôn bán như Phước Hùng, An Thành.
NGHI THỨC CHÀO KÍNH
Nhập ngũ bài học đầu tiên là cấp hiệu và
chào kính. Có nhiều cách thức chào kính như: Chào tay,
chào súng, gươm và nhiều cách khác tùy điều kiện, hoàn
cảnh và cũng thay đổi theo thời gian.
Theo một số tài liệu, chào tay phát xuất
từ xa xưa ở Tây Phương. Khi gặp Vua Chúa, Quan quyền,
thần dân thuộc hạ phải dơ tay phải lên che mắt để không
được thấy, cùng bày tỏ cung kính và tay không vơ khí.
Cách thức này chẳng khác sự phủ phục trước Thiên Tử ở
Đông Phương.
Đến giữa thập niên 50, số Sĩ Quan cũng
c̣n rất ít. Ngay tại Bộ Tổng Tham Mưu, một Thiếu Úy ra
vào cổng chính, Lính gác đă phải đứng nghiêm, Từ Trung
Úy phải chào súng. Nếu nhiều như sau này, chắc Binh Sĩ
không đủ thời gian đem súng xuống. Tại các Đơn Vị, từ
cấp Đại Đội Trưởng (Thiếu hoặc Trung Úy) mỗi khi ra vào
cổng, Toán Binh Sĩ trực đă phải dàn chào dưới sự chỉ huy
của Đốc Canh.
Thời trước, Binh Sĩ chào súng theo kiểu
Pháp, súng dọc thân ḿnh phía phải, tay phải đỡ đế súng,
bàn tay trái khép để trước súng, ḷng bàn tay úp xuống
mặt đất. Với tiểu liên, ṇng súng quay sang trái. Riêng
Bảo Chính Đoàn, súng vác vai, tay trái đặt ngang báng.
Sau này cơ bản thao diễn theo kiểu Mỹ, súng để trước,
giữa thân ḿnh. Với Garant M1, biểu xích ngang thắt lưng.
M16 loa che lửa ngang tầm mắt. Nếu mang vai tay trái giữ
dây súng, tay phải chào tay. Diễn hành súng vác th́ bộ
máy c̣ sát vai (ngược lại kiểu xưa ngửa lên trời), mặt
ngước về Thượng cấp.
Trước kia khi gặp cấp trên, nếu hai tay
mang xách hoặc ngồi xe hai bánh, thuộc cấp chào kính
bằng cách ‘’hất mặt’’ về cấp chỉ huy. Vào Câu Lạc Bộ,
nhà ăn, chào tay một lần, bỏ mũ, sau đó dù tŕnh diện
cấp trên cũng chỉ đứng nghiêm (không chào nữa).
Khi Sĩ Quan vào pḥng, Quân Nhân cao cấp
nhất thấy trước sẽ hô ‘’phắc’’ hay ‘’vào hàng phắc’’ đối
với từ cấp Trung Tá (Đơn Vị Trưởng) trở lên. Khi Thượng
cấp rời khỏi pḥng chỉ hô ‘’nghiêm’’. Khi hô ‘’vào hàng
phắc’’ đúng ra, ai phải về vị trí nấy (xạ thủ về trước
súng, âm thoại về trước máy...).
Nhân đây xin kể lại chuyện một lần chào
kiếm trong Lễ măn khóa của Sinh Viên Thủ Đức dưới sự chủ
tọa của Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu. Như thông lệ, Thủ
Khoa sau khi hô động lệnh chào súng cho toàn Khóa xong,
đàng sau quay rồi tuốt gươm chào. Bài bải chỉ đúng có
vậy. Không ngờ Quốc Trưởng chắc thấy buổi lễ diễn ra quá
đẹp dưới mắt Cụ, Nhà Lănh Đạo gốc dân sự, chưa quen Lễ
Nghi Quân Cách nên bước ngay xuống, dơ tay bắt tay Sinh
Viên Thủ Khoa. Phần này không dự liệu nên anh Thủ Khoa
hốt hoảng vă mồ hôi, nhất là nh́n tay Quốc Trưởng đă đưa
ra. Anh không biết xử trí ra sao, hấp tấp, chuyển kiếm
sang tay trái, lấy tay phải đón bắt tay Quốc Trưởng,
trong khi tay trái cầm kiếm quờ quạng. Sau buổi lễ anh
được lănh ngay lệnh phạt gia tăng từ Đại Đội Trưởng lên
tới Tướng Chỉ Huy Trưởng với lư do ‘’chào kính Nguyên
Thủ sai quy cách’’ (phải tra kiếm vào bao rồi mới được
bắt tay).
Chuyện sau không diễn ra một lần mà tái
diễn hoặc tùy tiện mỗi người. Nhiều Sĩ Quan cao cấp khi
được biệt phái sang chỉ huy Tỉnh, Quận vào những dịp
cúng tế tại Đ́nh Miếu đă rất lúng túng hoặc hành xử sai
quy cách. Có ông đứng vái, có ông lại lên gối, xuống gối
trong bộ quân phục đầy huy chương, biểu chương...có ông
tránh tham dự để khỏi ngượng ngùng. Người viết thường
được hỏi về thái độ thích nghi và đă cố giải thích:
‘’Với Quân Nhân cao trọng nhất là Tổ Quốc, qua biểu
tượng Quốc Kỳ, chúng ta cũng chỉ chào theo Quân Cách.
Quân Đội không dự trù có trường hợp Quân Nhân giữ nhiệm
vụ hành chánh phải đến nơi tôn nghiêm. Các Sĩ Quan Tỉnh,
Quận Trưởng, cho dù với tư cách Thượng Khách, khi được
mời lên chiêm bái, chỉ cần đứng thế nghiêm là đủ (không
bái lậy, khoanh tay, chắp tay v́ các động tác này không
hề có theo Quân Cách). Việc cử hành lễ là hoàn toàn là
quyền hạn và trách nhiệm của Ban Hương Chức. Nếu muốn
bày tỏ cung cách nào khác hơn, hăy mặc thường hay quốc
phục’’. Không biết các ư kiến Niên Trưởng ra sao ?
Chuyện về quân phục, cấp hiệu, huy
hiệu...rất dài, phức tạp. Đủ thẩm quyền, phương tiện
phải là Bộ Quốc Pḥng, Tổng Tham Mưu hay toàn thể Chiến
Hữu chứ đâu phải do một anh Lính ‘’tốt đen’’. Tuy vậy,
đă là Lính từng biết hô lớn câu ‘’tan hàng, cố gắng’’
nên cuộc đời ‘’cố gắng’’ đă quen, chẳng ngại ngần hay
dở, đúng sai cứ miệt mài ngồi bên bàn máy.
Nh́n lại quân phục, cấp hiệu, phù hiệu
hay nói rộng hơn chiến lược, chiến thuật của ta suốt 25
năm ảnh hưởng Pháp rồi đến Hoa Kỳ. Điều này sao tránh v́
chúng ta phải nhận viện trợ, yểm trợ của Đồng Minh trong
cuộc chiến tự vệ, sinh tồn.
Ngày mai, khi chủ quyền, đất nước về lại
nhân dân qua đấu tranh th́ mọi điều lớn nhỏ hoàn toàn do
ta. Chỉ riêng chuyện quân phục, cấp hiệu, phù
hiệu...chẳng theo kiểu Tây kiểu Mỹ mà do ḿnh chọn từ
chiến công, h́nh ảnh ngàn năm giữ nước. Nào cọc sắt Bạch
Đằng, mũi khoan Yết Kiêu (Hải Quân, Người Nhái), ngựa
sắt Phù Đổng (Thiết Kỵ), ḷ đúc Cao Thắng (Quân Cụ), nỏ
thần An Dương Vương (Pháo Binh), Loa Thành (Công Binh),
lá khô thấm mật Nguyễn Trăi (Tâm Lư Chiến)...kể sao cho
hết.
Người viết, một Khinh Binh Việt Nam Cộng
Ḥa, trong tư thế nghiêm chào tay. Chào Quốc Kỳ tượng
trưng cho Tổ Quốc, chào Quân Kỳ, cấp hiệu, phù hiệu, huy
chương tượng trưng cho Quân Đội. Kính cẩn nghiêng ḿnh
trước Anh Linh Anh Hùng Liệt Sĩ, Chiến Hữu đă hy sinh.
Sau cùng, tay nâng bài viết trân trọng trao đến Chiến
Hữu, Độc Giả.
|