QUÂN PHỤC, CẤP HIỆU, HUY HIỆU, HUY CHƯƠNG TỪ QUÂN ĐỘI QUỐC GIA ĐẾN QUÂN
LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ Tác giả: Nguyễn Đ́nh Phúc Sau 30/4/1975, chủ quyền đất nước mất vào
tay cộng sản (Việt Cộng và cộng sản Nga, Hoa), Chánh Quyền và Quân Lực
Việt Nam Cộng Hoà không c̣n nữa. Ngày nay dù phải xa quê hương, hoàn
cảnh đổi khác nhưng lư tưởng, chánh nghĩa người chiến sĩ một đời theo
đuổi vẫn c̣n đó, Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm vẫn c̣n đó, Quê Hương -
Dân Tộc vẫn c̣n đó. Con đường tranh đấu hôm nay dù mang một h́nh thái
khác xưa nhưng mục tiêu vẫn nhằm tranh đấu cho nền Độc Lập, Dân Chủ, Tự
Do thực sự, cho Hạnh Phúc, Thịnh Vượng muôn đời của toàn dân. Một điều
khẳng định: chúng ta không bao giờ quên được Tổ Quốc, Đồng Bào v́ khi
vừa nghe tin những quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa hay mới đây Ải Bắc, Bản
Giốc… vừa bị “bạo quyền cắt đất cầu phong” hay những tài nguyên thiên
nhiên bị cướp đoạt, dâng hiến… tức khắc tim ta nghẹn ngào, muốn đứng
vùng lên… Điều này chứng tỏ chúng ta vẫn măi măi là chiến sĩ Việt Nam
Cộng Hoà.
Từ hơn hai ngàn năm trước, Đức Khổng Tử đă nói đến tầm quan trọng
của nhung phục, đại ư Ngài dạy: “người tráng sĩ tự ḿnh chưa đủ oai
dũng khi lên yên chiến mă nếu như thiếu nhung y, giáp trụ, thiếu cờ
hiệu, cờ lệnh…” Bài viết xin được các chiến hữu, độc giả bổ sung,
tha thứ v́ hầu như hoàn toàn dựa vào trí nhớ giới hạn, nhận xét cá
nhân. Chỉ xin được xem như câu chuyện “lính kể lính nghe” trong
những ngày bị cấm trại, cấm quân hay phép cuối tuần bị “cháy”.
Ngay khi Hiệp Ước Vịnh Hạ Long (ngày 5 tháng 6, 1948) được kư kết
giữa đại diện chánh phủ Pháp và Việt Nam dưới sự chứng kiến của Quốc
Trưởng Bảo Đại, chánh quyền Quốc Gia ra đời. Nước Việt Nam được Độc
Lập, Thống Nhất nhưng vẫn c̣n nằm trong Liên Hiệp Pháp. Quân Đội
Quốc Gia ngay sau đó được thành lập nhưng thực tế mới chỉ là một lực
lượng quân sự, bán quân sự chiến đấu chống Việt Minh (cộng sản) bên
cạnh Quân Đội Liên Hiệp Pháp. Cho đến những năm đầu thập niên 50, Bộ
Tổng Tham Mưu Quân Đội Quốc Gia vẫn c̣n nhiều Sĩ Quan Pháp làm việc,
nhiều đơn vị do Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan Pháp chỉ huy, quyền chỉ huy tối
cao c̣n thuộc Bộ Tổng Tư Lệnh Pháp và những Secteur, Sous-secteur
(Tiểu Khu, Chi Khu chiến) của Pháp tại địa phương. QUÂN PHỤC Quân phục gồm lễ phục, quân phục làm việc, ra phố và chiến phục. Vào những năm đầu, quân phục chưa quy củ, luộm thuộm v́ ngay cả quân phục Quân Đội Pháp cũng không hơn. Nhiều quân nhân mặc chemise vàng, quần trận (loại có túi rộng ngang đầu gối). Đến khi Quân Đội Quốc Gia chính thức thành lập (giữa 1950, thời Thủ Tướng Trần Văn Hữu và Tổng Trưởng Quốc Pḥng Phan Huy Quát), quân phục mới được quy định tề chỉnh hơn. Lễ phục Sĩ Quan ngoài mầu trắng, có mầu xanh đậm (mùa lạnh), mũ casquette. Lễ phục mầu nào th́ phần trên mũ phù hợp theo (trắng, xanh, không kể mầu đỏ dành cho Hiến Binh). Quân phục làm việc tại các pḥng sở, ra khỏi doanh trại (số 2) “gabardine” hay ka-ki, “béret” cùng màu vàng xám (trừ Nhảy Dù đỏ, Thiết Giáp đen). Khi hành quân đều mặc đồ trận (treillis) mầu xanh “olive”, riêng Nhảy Dù thêm áo “sô” (saut) trông rất oai hùng. Tới thời Đệ Nhất Cộng Hoà đại lễ phục Sĩ Quan rất chỉnh tề, áo trắng dài, cổ cao, cúc (nút) vàng, thắt lưng đen, “casquette” trắng, quần sậm, có sọc như các quân trường, có cả dạ phục. C̣n tiểu lễ, quân phục số 2 mầu vàng, chiến phục gọn ghẽ hơn xưa. Nhớ lại sau hiệp định đ́nh chiến 54, quân nhân ra phố mặc đồ tác chiến sẽ bị tuần cảnh bắt giữ ngay. Nhưng thời gian sau, chiến tranh trở lại quân phục vàng lần lần vắng bóng ngoại trừ Sinh Viên hay khoá sinh quân trường. Chuyện trang phục của chúng ta ngày trước có nhiều điều rất trái mắt do sự tùy tiện nhất là từ cấp Tướng lănh. Một Đại Tướng v́ gốc Dù nên mặc đại lễ thay v́ đội casquette”, ông vẫn “sính” đội “beret” đỏ. Một vị lănh đạo quốc gia, v́ gốc phi công “anh dũng muôn đời” nên cứ diện phi bào với hai sao để cho tướng 3, 4 sao phải nghiêm chào. Thêm một Tướng biệt phái sang hành chánh thường mặc đồng phục bốn túi kiểu cán bộ, gặp tổng thống hay thủ tướng lại móc ngay 3 sao trong túi đeo lên ve áo thoải mái cứ như móc hộp quẹt zippo. Có một Đề Đốc, quần lại thích túm (gom) ống trông không giống một ai trong quân chủng… Vẽ lại vài ba h́nh ảnh mục đích cho bài viết thêm vui thôi v́ thời phong kiến đă có câu “luật không áp dụng với người tôn” nên nhằm nḥ ǵ chuyện nhỏ, các vị tùy tiện có chi đâu. Riêng về quân phục, chúng ta phải học ở Quân Đội Hoa Kỳ: “ngoài quy định, từ Thống Tướng tới binh sĩ, không ai đeo thừa, mang thiếu một quy định ǵ so với đồng ngũ, đồng cấp”. Sự đồng nhất triệt để tới cả mức gọng kính cận, đồng hồ đeo tay cũng không khác nhau. Chắc các chiến hữu c̣n nhớ chuyện một vị tướng Hoa Kỳ, ông đă đeo một huy chương trên đó có thêm ngôi sao nhỏ bị người chê sai, người bênh vực đúng nhưng ông vẫn tự sát v́ sự kiện này. Tất nhiên quy tắc nào cũng có ngoại lệ hay linh động v́ mục đích
chung nào đó. Chẳng hạn trên chiến phục ngay cấp hiệu cũng phải mang
cách thức ngụy trang, nhưng trong dịp quốc khánh, kỷ niệm quân lực…
các đơn vị mặc chiến phục diễn hành vẫn đeo đầy đủ cấp hiệu, dây
biểu chương, huy chương tḥng… để thêm oai dũng khác ngày thường. Những năm sau này, thêm nhiều quân binh chủng được thành lập nên ngoài chiến phục của bộ binh, có nhiều kiểu và mầu sắc đặc thù riêng rất oai hùng như phi bào (Không Quân), quân phục trắng (Hải Quân), Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân… Đây cũng là một trong những nét khác biệt của từng mầu cờ sắc áo. Sau 30-4-1975 trong tù cải tạo, anh em chúng ta nhiều khi vẫn được mặc hoặc chính việt cộng phát quân phục của chúng ta nhưng bắt phá bỏ túi, thay đổi kiểu nhưng tuyệt nhiên không cho mặc hay phát các đồ bông. Sau này mới hiểu chúng vẫn rất “rét”, bị ám ảnh khi thấy h́nh bóng các thiên thần mũ đỏ, cọp biển… chẳng khác nào theo Bảo Ninh trong Nỗi Buồn Chiến Tranh: “nhiều cán binh sống sót về lại miền Bắc không dám đứng dưới quạt trần v́ c̣n ngỡ cánh quạt trực thăng săn đuổi.” Ngoài ra mũ của chúng ta cũng thay đổi rất nhiều. Xưa kia, mũ “béret” kaki vải rất rộng (miền Bắc gọi mũ bánh đa), hoặc đen, phía gáy có tua vàng đỏ. Mũ “calot” xám, đen, trên đỉnh xẻ đôi có hai mầu xanh đỏ lớn hơn Không Quân. Mùa nắng đi “chapeau de brousse” mũ vải cứng rộng vành (hơi giống quân nhân Úc), một bên vành mũ bấm gọn lên để khỏi vướng khi vác súng. Sang thời Cộng Hoà, “béret” xám đi theo quân phục số 2. Trên mũ có huy hiệu tṛn khác mầu tùy mỗi hàng binh sĩ, Hạ Sĩ Quan, Sĩ Quan. Sau đảo chính 63, thường mặc “treillis” nên mũ vải lúc đầu cứng (như képi), sau như “casquette” có múi, nhiều Tướng Tá “làm dáng” tay mũ cũng gắn nhành dương liễu như “casquette” đại lễ. Mũ sắt hai lớp dù nặng nhưng rất an toàn, có lưới gài lá ngụy trang nhưng lại dễ bị vướng, móc. Bao bằng vải rằn ri hay vẽ lên như Biệt Động Quân cũng tiện. Bảng tên được gắn liền trên chiến phục hay đeo bên nắp túi áo phải quân phục số 2, không kể cấp hiệu, phù hiệu được mang đầy đủ trên quân phục như sẽ đề cập phần sau. Chỉ riêng việc này đă làm mất tính bí mật quân sự. Địch dễ dàng nhận diện hay trên xác tử sĩ để lại chiến trường đủ t́nh trạng quân vụ (đơn vị, cấp bậc…) ngoài những cáo phó, chia buồn, góp vui đầy trên báo chí. Ngoài cổng doanh trại ghi đủ hệ thống thống thuộc, đơn vị đồn trú. Trong khi việt cộng đến khi chiếm trọn miền Nam, trước cổng cũng chỉ có tấm bảng “doanh trại Quân Đội nhân dân”. Như vậy bài học vỡ ḷng “che dấu, ẩn nấp” để “ta thấy địch, địch không thấy ta” trở thành hài hước. CẤP HIỆU Cấp hiệu là quy ước có h́nh thức tuy nhỏ, đơn giản nhưng biểu lộ quyền chỉ huy tuyệt đối với thuộc cấp. “Huynh đệ chi binh” là mối tương quan trong đời quân ngũ, nhưng trong hệ thống quân giai, chỉ khác một vạch, mầu sắc bạc vàng đủ cho thuộc cấp phải nghiêm cứng người, đủ để tuân lệnh nhẩy vào lửa đạn. Từ khi thành lập Quân Đội Quốc Gia, cấp hiệu được gọi bằng “lon” (galon trong Pháp ngữ) hoàn toàn như Quân Đội Pháp cho tới thời Cộng Hoà được thay thế hơi theo kiểu Mỹ. Nhiều buổi tổ chức đốt bỏ cấp hiệu cũ, cùng thời với việc đốt bỏ những bộ bài, bàn đèn á phiện, sách báo khiêu dâm… Đây là sự kiện thiếu tế nhị trong chánh sách ngoại giao tiếp theo việc đoạn giao với Pháp. Trước đó, hoàn toàn như Pháp nên cấp hiệu đều dùng vạch vàng thẳng trên “lon” Sĩ Quan, ngoại trừ thiết giáp binh (kỵ binh) dùng vạch trắng. Từ “adjudant” (ông “Ách”) đều vạch thẳng ngân tuyến, kim tuyến có sợi chỉ đỏ chạy dọc, “aspirant” (Chuẩn Úy) 2 sợi chỉ đen ngang, lên tới hết cấp Tá vẫn dùng vạch. Tiếng Việt, lúc đó chúng ta thường gọi quan Một quan Hai… Tới quan Tư, vạch thứ tư cách xa để phân biệt từ cấp này là Sĩ Quan cao cấp (officier supérieur), dưới đó chỉ là Sĩ Quan cấp thấp (officier subalterne). Trên quan Tư có quan Năm khoanh trắng (lieutenant colonel) với 5 vạch (3 vàng, 2 trắng) và quan Năm khoanh vàng (colonel) 5 vạch đều vàng. Cấp Tướng mang sao (từ 2 sao trở lên). Hạ Sĩ Quan và binh sĩ mang vạch h́nh chữ V ngược vàng, đỏ nơi cánh tay. Người viết không rơ các danh xưng Tá, Úy do ai trong Bộ Quốc
Pḥng hay Tổng Tham Mưu đặt ra, riêng danh xưng các cấp Hạ Sĩ, Trung
Sĩ, Thượng Sĩ xuất xứ từ lực lượng Bảo Chính Đoàn (Bắc Việt) đặt ra
trước cùng lúc với các Hoa Mai của cấp Sĩ Quan Bảo Chính Đoàn trong
khi Sĩ Quan chánh quy vẫn c̣n đeo “lon” hoàn toàn như Sĩ Quan Pháp. Ông Đoàn Chí Khoan có thể coi như người soạn thảo sơ đồ tổ chức Bảo Chính Đoàn, tất nhiên có phần quân phục, cấp hiệu, phù hiệu. Có thể ông được ảnh hưởng tổ chức Quân Đội Trung Hoa (Quốc Dân Đảng) và tổ chức hành chánh nên dùng các danh xưng Đốc Quân và Phó Đốc Quân cho Sĩ Quan cấp Tá và Úy. Mỗi cấp có ba hạng: Phó Đốc Quân hạng ba, hạng hai và hạng nhất.
(tương đương Thiếu, Trung, Đại Úy), và Đốc Quân cũng có 3 hạng. Trên
hết là Chánh Đốc Quân (như cấp Tướng, nhưng chưa có ai được phong).
Tư Lệnh Bảo Chính Đoàn đầu tiên là Đốc Quân hạng 2 Hoàng Văn Tỷ (sau
này là một trong 6 Đại Tá đầu tiên của Quân Đội Quốc Gia), Tư Lệnh
Phó là Đốc Quân hạng 3 Đoàn Chí Khoan, Giám Đốc trường Sĩ Quan Bảo
Chính Đoàn là Đốc Quân hạng 3 Linh Quang Viên (sau thăng Trung Tướng
Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà). Nhân đây, xin nói về truyền thống, ư nghĩa cấp hiệu. Từ xưa có 3 quân binh chủng đeo cấp hiệu theo truyền thống quốc tế v́ thường có tầm hoạt động ngoài lănh thổ, phải theo nhiều luật lệ hàng hải, hàng không gồm hải quân, không quân, thiết giáp binh và lực lượng cảnh sát. Không hiểu lư do nào, khi quy định lại cấp hiệu theo kiểu Mỹ chỉ riêng hải quân được giữ lại. Trái lại Cảnh Sát đổi cấp hiệu theo như Quân Đội. Trước đây Ngành Cảnh Sát đă có tổ chức quy củ với những ngạch trật như Thanh Tra, Quận Trưởng, Biên Tập Viên, Chánh Phó Thẩm Sát Viên… đến khi Tướng Phong sang chỉ huy, mang theo rất nhiều Sĩ Quan và có lẽ để tiện việc sắp đặt chức vụ, đă dùng theo cấp bực Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, bỏ quy chế, cấp hiệu cũ, không quan tâm đến thời gian huấn luyện, thâm niên công vụ. Một Biên Tập Viên cùng tŕnh độ văn hoá và thời gian thụ huấn như một Chuẩn Úy bộ binh nhưng khi tốt nghiệp mang ngay cấp Đại Úy Cảnh Sát Quốc Gia. Ngoài ra dù mang cấp bậc như Quân Đội, Cảnh Sát Quốc Gia cũng không có thẩm quyền ǵ với quân nhân lại tạo cho dư luận, cộng sản dễ chỉ trích “quân phiệt”, “cảnh sát trị” trong khi chính bộ máy ḱm kẹp, phá hoại của việt cộng có tới cấp Bộ Công An. Sau năm 1955, trước khi cấp hiệu các lực lượng quân sự địa phương chính quy hoá, Bảo An Đoàn mang cấp hiệu riêng như Bảo Chính Đoàn Bắc Việt trước kia. V́ thiếu thống nhất nên dễ ngộ nhận nhất là khi xuất ngoại. Thiếu Úy Bảo An đeo bông hoa thị bạc 6 cánh, trông vừa giống hoa mai, vừa giống sao, lại thêm hai nhánh lúa ôm hai bên trông như hai nhánh thiên tuế. Khi du học, du hành quan sát sĩ quan đồng minh kể cả cấp Tá cũng như huấn luyện viên, một điều “Yes, Sir” hai điều cũng “Yes, General” với Thiếu Úy và c̣n chào kính “túi bụi” v́ nghĩ thầm ít ǵ cũng Chuẩn… Tướng. Trở lại cấp hiệu Sĩ Quan thời Đệ Nhất Cộng Hoà, cấp Tá mang mai bạc lớn hơn, Úy mai vàng, nhưng từ xa khó nhận ra, nên sau này thêm hàng lá thiên tuế kèm theo mai bạc cấp Tá. Cũng từ thời Tướng Nguyễn Khánh, lập thêm cấp Chuẩn Tướng (một sao) v́ muốn cho Hội Đồng Tướng Lănh đông hơn, nhiều hậu thuẫn, tạo thành lớp “Tướng trẻ” dễ dàng khống chế lớp “Tướng không trẻ” hoặc dễ áp lực cho đi “Đại Sứ”. Đó là thời “loạn Tướng”. Đề cập đến “loạn Tướng” thiết nghĩ phải nói đến quy chế Tướng Lănh một cách đúng truyền thống quốc tế. Khi đă bước lên hàng Tướng, cấp bậc có tính cách trọn đời ngay cả khi đă bỏ binh quyền, đời quân ngũ. V́ vậy không có thể gọi là Cựu Trung Tướng, Cựu Thiếu Tướng… mà là Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, cựu Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, cựu Phó Tổng Thống… Hoặc khi họ đáo hạn tuổi giải ngũ, rời bỏ binh quyền cũng vẫn dùng cấp bậc Tướng Lănh, chỉ thêm chữ Hồi Hưu như General Westmoreland (Ret). Quân Đội vẫn phải đăi ngộ Tướng Lănh với đầy đủ quy chế, nghi lễ: lương bổng, quân phục, cấp hiệu, Tướng kỳ, tùy viên, hộ tống, chào kính… ngoại trừ binh quyền. Ngoài ra, tưởng cũng nên nhắc đến một số cấp hiệu, phù hiệu của
các lực lượng đồng minh tham chiến tại Việt Nam trước kia. Ngoài
những ǵ theo truyền thống quốc tế như mỏ neo với Hải Quân, cánh bay
Không Quân, chữ thập Quân Y… có những đặc thù riêng như khối Liên
Hiệp Anh (Úc, Tân Tây Lan…) với vương miện (Crown), Thái Lan trọng
bảo tháp (Phật), dành cho hàng Tướng, sao cho cấp Tá, Úy. Ngược lại thời gian mang cấp hiệu theo kiểu Pháp kể cả lúc sau này, cấp hiệu đeo trong đại lễ phải đầy đủ, tiểu lễ và thường ngày đeo giản lược trên vai áo. Hàng Trung Sĩ trở xuống đeo hinh chữ V ngược nơi tay áo. Có tài liệu cho đó là tượng trưng cấp chỉ huy gánh vác trọng trách (Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan cao cấp), c̣n hàng Hạ Sĩ Quan cấp thấp tuy chỉ huy nhưng thẩm quyền nhỏ hẹp. Cấp hiệu thời đó không đeo trên ve áo như sau này, trái lại Quân Đội Pháp c̣n quy định những Tướng lănh cao cấp lại được phong thêm các cấp hiệu binh nhất, hạ sĩ, trung sĩ danh dự mang trên ve áo hay tay áo. Như Đại Tướng De Lattre, được đeo thêm cấp hạ sĩ nhất danh dự, Trung Tướng Cogny thêm cấp hạ sĩ. Đây là quy định chính thức như chức Huyện, Phủ hàm thời trước, không như cách vui chơi khi có người gọi một ca sĩ là hạ sĩ danh dự. Chúng ta có một danh từ chỉ chức vụ rất đặc thù là chức Tư Lệnh cho cấp chỉ huy các đại đơn vị (commandant en chef/ commander-in-chief) thay v́ Chỉ Huy Trưởng. Nguyên nghĩa “Tư Lệnh” nói lên sự toàn quyền ban phát lệnh thay v́ chỉ chuyển lệnh từ cấp trên xuống như cấp Chỉ Huy Trưởng. HUY HIỆU, HUY CHƯƠNG Huy hiệu, phù hiệu mang trên quân phục chỉ rơ đơn vị trực thuộc. Nhiều khi c̣n dùng thêm khăn quàng trong các buổi lễ để rực rỡ cho mầu cờ sắc áo, hoặc các “nơ” màu để dễ nhận bạn. Thời phôi thai, Quân Đội mới có đến cấp Tiểu Đoàn, nên phù hiệu đeo dưới nắp túi ngực phải, bằng kim loại chế tạo từ Pháp. Ngoài ra c̣n được làm nhỏ để gắn trên bút nịt, vật dụng tùy thân (hộp quẹt, hộp thuốc…). Các quân trường Vơ Khoa Thủ Đức, Liên Quân Đà Lạt… cũng có phù hiệu riêng, nhiều khi đeo ngay trên cầu vai (épaulette). Sau này khi thành lập được các đại đơn vị, binh chủng… phù hiệu bằng vải đeo cánh tay trái trên cao, đằng trước ngực dành đeo phù hiệu đơn vị nhỏ. Trên quân phục, chúng ta c̣n đeo thêm các bằng chuyên môn… như bằng Rừng Núi Śnh Lầy, bằng Dù, cánh Bay… Quân Đội có nhiều h́nh thức tuyên dương, ban thưởng cho toàn đơn vị, cá nhân như các dây biểu chương, huy chương. Trước kia, chúng ta chỉ có Croix de guerre, Médaille d”honneur… của Pháp, nhiều loại được lănh phụ cấp hàng tam-cá-nguyệt. Sang thời chính thể Quốc Gia, Quốc Trưởng ban thưởng Bảo Quốc Huân Chương là huy chương cao trọng nhất với năm hạng, trên mặt Bảo Quốc chạm nổi hàng chữ Tổ Quốc Tri Ân. Thể thức cấp thưởng rất khó khăn đ̣i hỏi những chiến công hiển hách, thành tích lớn lao đối với tổ quốc, dân tộc. Nghi thức trao gắn rất long trọng, quân nhạc cử điệp khúc quốc thiều, người được ân thưởng tay nâng huân chương để nguyên thủ quốc gia chào kính. Nếu phạm trọng tội, trước khi truy tố phải có sắc lệnh thu hồi. Nếu khinh tội có thể được miễn tố hoặc giảm khinh. Đối với hạng nhất, nếu tôi nhớ không lầm chỉ có 3 người sinh thời được ban thưởng là Bảo Long, Hoàng Thái Tử kiêm Tư Lệnh danh dự Ngự Lâm Quân. Kế là Đại Tướng De Lattre, Cao Ủy kiêm Tổng Tư Lệnh Quân Đội Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương, nhờ chiến thắng Vĩnh Phúc Yên 1951. Sau này Thống Tướng Lê Văn Tỵ khi gần mất mới được phong Thống Tướng và ân thưởng đệ nhất đẳng. Đại Tướng Đỗ Cao Trí chỉ được truy thăng Đại Tướng và truy tặng đệ nhất đẳng sau khi tử trận. Anh Dũng Bội Tinh, chạm chữ Quốc Gia Lao Tường với nhành dương liễu và sao vàng, bạc, đồng do sự khác biệt giữa Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan, binh sĩ về chiến công và phạm vi tuyên dương trước Quân Đội hay chỉ trước cấp Lữ Đoàn, Sư Đoàn. Ngoài ra, sau này cùng với sự lớn mạnh của Quân Đội, chiến trận gia tăng rất nhiều huy chương thuộc các quân binh chủng được ban thưởng. Quân Công, Quân Phong, Quân Vụ Bội Tinh, Lục Quân Huân Chương, Hải Vụ, Phi Vụ, Chiến Thương… chưa kể huy chương của nhiều quốc gia, quân lực đồng minh cũng trao tặng. Riêng về dây biểu chương có ba hạng mang tên mầu: Anh Dũng, Quân
Công, Bảo Quốc và trên hết là dây biểu chương mầu Tam Hợp. Để được
tưởng thưởng mầu Tam Hợp đ̣i hỏi toàn thể đại đơn vị phải lập chiến
công và ít nhất phải được tuyên dương công trạng cấp Quân Đội từ 3
lần trở lên. Trong tiểu lễ, huy chương mang dưới dạng đơn giản (chỉ có phần cuống). Với dạ phục mang huy chương tḥng nhưng thu nhỏ. Các dây biểu chương cũng thu lại bằng như một huy chương ngắn, đóng khung vàng, đeo riêng trên cùng. Ngoài ra trên Quân Kỳ các quân, binh chủng, đại đơn vị, cũng sẽ gắn các dây biểu chương và huy chương đă được ban thưởng. Với huy chương của các quốc gia đồng minh, phải có sự chấp thuận trước hoặc phải được hợp thức, quân nhân đương sự mới được mang. Các cấp hiệu, huy hiệu, phù hiệu… v́ không được tuyển chọn kỹ lưỡng nên thường hay thay đổi, gây tốn kém cho quân nhân, chỉ có lợi cho các nhà sản xuất, buôn bán như Phước Hùng, An Thành… NGHI THỨC CHÀO KÍNH Khi nhập ngũ, bài học đầu tiên là cấp hiệu và chào kính. Có nhiều
cách thức chào kính như: chào tay, chào súng, gươm và nhiều cách
khác tùy điều kiện, hoàn cảnh và cũng thay đổi theo thời gian. Theo
một số tài liệu, chào tay phát xuất từ xa xưa ở Tây phương. Khi gặp
Vua Chúa, quan quyền, thần dân, thuộc hạ phải dơ tay phải lên che
mắt để không được thấy, cùng bày tỏ cung kính và tay không vơ khí.
Cách thức này chẳng khác sự phủ phục trước Thiên Tử ở Đông phương. Thời trước, binh sĩ chào súng theo kiểu Pháp: súng dọc thân ḿnh
phía phải, tay phải đỡ đế súng, bàn tay trái khép để trước súng,
ḷng bàn tay úp xuống mặt đất. Với tiểu liên, ṇng súng quay sang
trái. Riêng Bảo Chính Đoàn (Bắc Việt), súng vác vai, tay trái đặt
ngang báng. Sau này cơ bản thao diễn theo kiểu Mỹ, súng để trước,
giữa thân ḿnh. Với Garant M1, biểu xích ngang thắt lưng, M16 loa
che lửa ngang tầm mắt. Nếu mang vai, tay trái giữ dây súng, tay phải
chào tay. Diễn hành súng vác th́ bộ máy c̣ sát vai (ngược lại kiểu
xưa, ngửa lên trời), mặt ngước về thượng cấp. Trước kia khi gặp cấp
trên, nếu hai tay mang xách, hoặc ngồi xe hai bánh, thuộc cấp chào
kính bằng cách “hất mặt” về cấp chỉ huy. Vào Câu Lạc Bộ, nhà ăn,
chào tay một lần, bỏ mũ, sau đó dù tŕnh diện cấp trên cũng chỉ đứng
nghiêm (không chào nữa). Nhân đây xin kể lại chuyện một lần chào kiếm trong lễ măn khoá
của sinh viên Thủ Đức dưới sự chủ toạ của Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu.
Như thông lệ, Thủ Khoa sau khi hô động lệnh chào súng cho toàn Khoá
xong, đằng sau quay rồi tuốt gươm chào. Bài bản đúng chỉ có vậy.
Không ngờ Quốc Trưởng chắc thấy buổi lễ diễn ra quá đẹp dưới mắt Cụ,
nhà lănh đạo gốc dân sự, chưa quen nghi lễ quân cách nên bước ngay
xuống, dơ tay bắt tay sinh viên thủ khoa. Chuyện sau không diễn ra một lần mà tái diễn hoặc tùy tiện mỗi người. Nhiều Sĩ Quan cao cấp khi được biệt phái sang chỉ huy Tỉnh, Quận vào các dịp cúng tế tại đ́nh, miếu đă rất lúng túng hoặc hành xử sai quy cách. Có ông đứng vái, có ông lại lên gối, xuống gối trong bộ quân phục đầy huy chương, biểu chương… có ông tránh tham dự để khỏi ngượng ngùng. Người viết thường được hỏi về thái độ thích nghi và đă cố giải thích: “với quân nhân, cao trọng nhất là Tổ Quốc, qua biểu tượng quốc kỳ, chúng ta cũng chỉ chào theo quân cách. Quân Đội không dự trù có trường hợp quân nhân giữ nhiệm vụ hành chánh phải đến nơi tôn nghiêm. Các Sĩ Quan Tỉnh, Quận Trưởng, cho dù với tư cách thượng khách, khi được mời lên chiêm bái, chỉ cần đứng thế nghiêm là đủ (không bái lậy, khoanh tay, chắp tay v́ các động tác này không hề có theo quân cách). Việc cử hành lễ hoàn toàn là quyền hạn và trách nhiệm của ban hương chức. Nếu muốn bầy tỏ cung cách nào khác hơn, hăy mặc thường hay quốc phục.” Không biết ư kiến các niên trưởng ra sao? Chuyện về quân phục, cấp hiệu, huy hiệu… rất dài, phức tạp. Đủ thẩm quyền, phương tiện phải là Bộ Quốc Pḥng, Tổng Tham Mưu hay toàn thể chiến hữu chứ đâu phải do một anh lính “tốt đen”. Tuy vậy đă là lính từng biết hô lớn câu “tan hàng! cố gắng!” nên cuộc đời “cố gắng” đă quen, chẳng ngại ngần hay dở, đúng sai cứ miệt mài ngồi bên bàn máy. Nh́n lại quân phục, cấp hiệu, phù hiệu hay nói rộng hơn chiến lược, chiến thuật của ta suốt 25 năm ảnh hưởng Pháp rồi đến Hoa Kỳ. Điều này sao tránh v́ chúng ta phải nhận viện trợ, yểm trợ của đồng minh trong cuộc chiến tự vệ, sinh tồn. Ngày mai, khi chủ quyền, đất nước về lại nhân dân qua đấu tranh th́ mọi điều lớn nhỏ hoàn toàn do ta. Chỉ riêng chuyện quân phục, cấp hiệu, phù hiệu… chẳng theo kiểu Tây kiểu Mỹ mà do ḿnh chọn từ chiến công, h́nh ảnh ngàn năm giữ nước. Nào cọc sắt Bạch Đằng, mũi khoan Yết Kiêu (Hải Quân, Người Nhái), ngựa sắt Phù Đổng (Thiết Kỵ), ḷ đúc Cao Thắng (Quân Cụ), nỏ thần An Dương Vương (Pháo Binh), Loa thành (Công Binh), lá khô thấm mật Nguyễn Trăi (Tâm Lư Chiến)… kể sao cho hết. Người viết, một khinh binh Việt Nam Cộng Hoà, trong tư thế nghiêm chào tay. Chào quốc kỳ tượng trưng cho Tổ Quốc, chào Quân kỳ, cấp hiệu, phù hiệu, huy chương tượng trưng cho Quân Đội. Kính cẩn nghiêng ḿnh trước anh linh anh hùng liệt sĩ, chiến hữu đă hy sinh. Sau cùng, tay nâng bài viết trân trọng trao đến chiến hữu, độc giả. Nguyễn Đ́nh Phúc
|