|
Binh Chủng Nhảy Dù 20 N
ăm
Chiến Sự |
nhật tu 10/14/2007
Mặt Trận Phan Rang
(Từ Ngày 1/4/1975 đến
17/4/1975)
Lực
lượng bạn :
Sau giai đoạn lui binh khỏi Quân Khu 1
và Quân Khu 2, QLVNCH đă cố thủ tại Phan Rang thuộc
Tỉnh Ninh Thuận. Hai tỉnh Ninh Thuận và B́nh Thuận
đă chính thức được sát nhập vào lảnh thổ
Quân Khu III ngày 4/4/1975. Ninh Thuận, Quê hương của Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu là một tỉnh nhỏ
cách Sài G̣n khoảng 350km về hướng Bắc. Diện
tích 3500 cây số vuông với dân số 300.000 dân. Trong số
nầy có khoảng 17.000 người gốc Chàm. Phan Rang nằm
vào phía Nam của một thung lủng hẹp bao bọc bởi
các dăy núi về hướng Tây, Bắc và Đông Bắc, có
các cao điểm và đèo Du Long rất thuận tiện
cho việc pḥng ngự. Ngày đêm phi cơ trong căn cứ
Phi Trường liên tục
quan sát bao vùng và oanh tạc ngay các mục tiêu bị phát hiện.
Đường xe lửa chạy song
song với Quốc lộ 1 xuyên qua đèo Du long về thị
xả, tách ra tại Thôn Ba Râu, chạy sát phi trường rồi
tiến về Nam không qua thị xă. Quốc lộ 1, từ
thị xă đến Du Long khoảng 15 km, đến Ba Râu
khoảng 9 km và đến Cà Đú khoảng 4 km. Từ Cà
Đú đến thị xă, mặt đất bằng phẳng.
Phan Rang lúc đó được xem
như tuyến đầu phía Bắc của miền Nam, cũng
là quê cha đất tổ của Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu nên không thể bỏ rơi được.
Ngày 20/3/1975, Lữ đoàn 2 Nhảy
Dù đang đóng tại
đèo Phước Tường, ở về mặt biển
Đông Nam Thành phố Huế, được lệnh cấp
tốc bàn giao vùng nầy cho Thủy Quân Lục Chiến.
Toàn bộ Lữ Đoàn phải có mặt tại phi trường
Đà Nẳng trước 5 giờ sáng ngày 21/3/1975 để
được không vận về Sàig̣n.
Về đến hậu cứ Lữ
Đoàn tại căn cứ Nguyễn Huệ ở Biên Ḥa,
được lệnh Tổng Tham Mưu ứng trực
100% quân số (thời gian nầy vừa nghỉ dưỡng
quân, vừa tái trang bị, và vừa ứng chiến từ
22/3/1975 đến đầu tháng 4/1975..
Ngày 4/4/1975, Lữ đoàn 2 Nhảy Dù lại
được lệnh khẩn cấp lên đường
ra Phan Rang nội trong ngày bằng phi cơ C130 và C119 với
nhiệm vụ thay thế LĐ3ND để bảo vệ
pḥng tuyến Phan Rang; ḍ t́m các đơn vị Lữ
đoàn 3 Nhảy dù đang thất lạc trong rừng núi tại
khu vực Khánh Dương (thuộc tỉnh Khánh Ḥa), bốc
họ bằng trực thăng đưa đến phi
trường Phan Rang, rồi không tải về Sàig̣n và
đặt thuộc quyền sử dụng của Quân
đoàn 3.
Để đối phó với đà tiến
quân của CSBV, Quân Đoàn 3 bố trí tại mặt trận
Phan Rang các lực lượng như sau :
- LĐ2ND
do Đại Tá Nguyễn Thu Lương làm Lữ Đoàn
Trưởng gồm 4 Tiểu Đoàn 3,5,7 &11ND, Đại
Đội 2 Trinh Sát Nhảy Dù và TĐ1PBND
* Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù, Thiếu
Tá Lă Qúi Trang TĐT, Thiếu Tá
Trương Văn Vân TĐP.
*
Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù , Thiếu
Tá Nguyễn Lô làm Tiểu
Đoàn Trưởng
*
Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù, Thiếu
Tá Nguyễn Văn Thành TĐT, TT Nguyễn Văn Giới
TĐP.
*
Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, Trung Tá Bùi Quyền TĐT,
Thiếu Tá Vơ Trọng Em TĐP.
* Đại Đội 2 Trinh
Sát Trung Úy Sáng làm Đại
Đội Trưởng
* Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Nhảy
Dù Thiếu Tá Nguyễn Văn
Nghi làm Tiểu Đoàn Trưởng.
- Trung
Đoàn 4 & 5/SĐ2BB với 2 Pháo đội gồm 10 khẩu
105 ly, 2 Chi đội Thiết Vận Xa gồm 10 chiếc
do Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt làm Tư Lệnh.
- Liên
Đoàn 31 Biệt Động Quân do Đại tá Nguyễn
Văn Biết chỉ huy,
gồm 3 Tiểu đoàn 31 do Thiếu tá Nguyễn văn Tú
làm Tiểu đoàn trưởng, TĐ 36 do Thiếu tá
Đào Kim Minh làm Tiểu đoàn trưởng và TĐ52 từ
Sài G̣n ra thay thế LĐ2ND từ ngày 13/4/1975.
- Lực lượng Hải quân
gồm:- Duyên đoàn 27- 2 Khu trục hạm- 1 Giang pháo hạm-
1 Hải vận hạm và một số tàu yểm trợ.
- Lực
lượng Không quân gồm: Không Đoàn 92 Chiến Thuật
do Đại tá Lê văn Thảo Không đoàn trưởng với
3 phi đoàn A-37 524 Thiên Lôi, 534 Kim Ngưu và 548 Ó Đen. -
Không Đoàn 72 Chiến Thuật do Trung tá Lê Văn Bút làm
Không Đoàn Trưởng với 2 phi đoàn trực
thăng 229 và 235, 1 phi đoàn Quan sát 118 và một bộ phận
của Phi đoàn 530 A-1 với
Phi đội tản thương 259 C
- 4 Tiểu Đoàn Địa
Phương Quân.
- 1 Chi Đoàn M113.
- Sư Đoàn 6 Không Quân do Chuẩn
Tướng Phạm Ngọc Sang làm Tư Lệnh.
Lực lượng địch :
Sau khi chiếm được Quân Khu 1 và
Quân Khu 2 của VNCH tới Thị Trấn Cam Ranh, Quân
Đoàn 2 CSBV do Tướng VC Nguyễn Hữu An chỉ
huy, Tướng Lê Linh làm Chính Ủy được lịnh
tiến dọc theo QL1 hướng về phía Nam. Cánh quân này
và cả các lưc lượng hậu cần CSBV tiến dọc
theo duyên hải do Thiếu tướng VC Nam Long chỉ huy
đều được đặt dưới quyền
chỉ huy của Trung Tướng CS Lê Trọng Tấn và
Lê Quang Ḥa làm chính ủy. Lực lượng CSBV tấn công
Phan Rang gồm các đơn vị sau :
-
SĐF10
dưới sự chỉ huy của Sư đoàn trưởng
Thượng tá Hồ Đệ và Chính uỷ Thượng
tá Lă Ngọc Châu
-
SĐ3CSBV do Trần Bá Khuê làm Tư Lệnh , Mai Tần
Tư Lệnh Phó, thuộc Quân khu 5 được tăng
cường Trung đoàn bộ binh 25 Tây Nguyên.
-
Sư đoàn
325 CSBV gồm các Trung Đoàn
18, 95 và 101 thuộc Quân đoàn 2.
- Sư Đoàn 968 do
Thanh Sơn làm Sư đoàn trưởng được
tăng cường về sau.
-
Một Trung
đoàn Pháo, Trung đoàn Chiến Xa.
Phan Rang
Phi trường Phan Rang rất rộng, h́nh
vuông, mỗi cạnh trên dưới 6 km, nằm giữa QL
1 và QL 11 và sát với đường xe lửa về hướng
Đông, cách thị xả 5km và Nha Trang khoảng 80km. Có 2
đường bay song song, 1 bằng xi măng cốt sắt
và một bằng vĩ nhôm dài 10.000 bộ, rộng 150 bộ.
Có đầy đủ cơ sở cho kỷ thuật, tiếp
liệu với các bồn xăng và kho bom theo tiêu chuẩn
an ninh tối tân. Việc pḥng thủ bao gồm 60 cḥi gác, với
2 cổng chung quanh căn cứ do 7 đại đội
Địa phương quân phụ trách.
Kể từ ngày 31.3.1975, sau khi Nha Trang bỏ
ngỏ, căn cứ Phan Rang đương nhiên trở
thành căn cứ tiền tuyến của Miền
Ngoài Thị Xả, Tỉnh Trưởng
đă rời nhiệm sở, dân chúng th́ lo sợ nên ào ạt
tản cư về hướng tỉnh Phan Thiết, phố
xá và chợ búa vắng tanh. Các công chức tỉnh đa số
đều đă di tản. Trên QL1 và 11 hướng về
SàiG̣n, từng đoàn xe dân sự và quân sự chật nứt
người rầm rộ tiếp nối chạy giặc.
Tệ hại hơn nửa là ĐàLạt cũng rút bỏ
và đoàn xe của Trường Vỏ Bị đang theo
QL11 trên đường đi B́nh Tuy cũng vừa chạy
ngang qua.
BTL/SĐND yêu cầu BCH/SĐ6KQ để
cho LĐ3ND vào căn cứ phi trường và xử dụng
để kiện toàn an ninh cho phi trường và phối hợp
với các đơn vị Địa phương quân trong
việc giữ an ninh cho thị xả. Thật là đúng
lúc cần thiết có thêm người để giử an
toàn cho căn cứ hiện trong t́nh trạng bỏ ngỏ.
Trung Tá Phát xử dụng ĐĐ/TS3ND
bung ra kiểm tra nội vi căn cứ phi trường và
đánh đuổi một vài tên du-kích VC mon men vào đồn
Đại Hàn gần cổng số 2 của phi trường.
Buổi chiều 1/4/1975 Tướng Phú,
Tư Lệnh QĐ2 ghé thăm hỏi t́nh h́nh và sáng hôm sau rời
căn cứ bay về Sài G̣n.
Quân đoàn 3 lập pḥng tuyến Ninh Thuận
Sau khi 6 tỉnh Cao nguyên và 8 miền tỉnh
miền Trung bị lọt vào tay CSBV, để ngăn chận
địch quân tràn chiếm hai tỉnh Ninh Thuận,B́nh Thuận,
thành lủy cuối cùng của Quân khu 2, Bộ Tổng Tham
Mưu Quân lực VNCH đă quyết định giao cho Quân
đoàn 3 lập tuyến pḥng thủ bảo vệ hai tỉnh
này.Để có sự chỉ huy thống nhất, Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu đă chỉ thị cho
Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân
đoàn 3 & Quân Khu 3, thành lập Bộ tư lệnh Tiền
phương Quân Đoàn 3 tại Phan Rang và Trung Tướng
Nguyễn Vĩnh Nghi được Tổng thống Thiệu
cử làm Tư lệnh phó Quân Đoàn 3, trực tiếp chỉ
huy Bộ Tư lệnh Tiền phương của Quân
đoàn này. Vào thời gian đó, Trung Tướng Nghi là Chỉ
Huy Trưởng trường Bộ Binh Thủ Đức,
ông cũng đă từng giữ chức Tư lệnh Quân
đoàn 4 & Quân khu 4 từ tháng 5/1972 đến 11/1974 sau
khi đă giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn
21 Bộ binh gần 4 năm (từ tháng 6/1968 đến
tháng 5/1972).
Ngày 2/4/1975 lúc 2 giờ chiều,Trung
tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh QĐ3 đến
thăm Thị Xả Phan Rang và để xác nhận Phan Thiết
& Phan Rang sát nhập vào Quân đoàn III, và trở thành cứ
điểm cực Bắc của Quân đoàn..
* T́nh h́nh Tỉnh
Ninh Thuận
Thị Trấn Phan Rang
Sáng ngày 1/4/1975,Các thành phần thuộc
LĐ3ND và TĐ5ND được điều động
để lục soát và giử an ninh khu vực nội vi
phi trường và ṿng đai từ Bà Râu tới Thị Xả
Phan Rang.
Ngay sau khi BTL tiền phương QĐ3
được thành lập tại Phan Rang (tỉnh lỵ
Ninh Thuận), trật tự an ninh tại tỉnh này đă
được văn hồi. Đại tá Trần Văn Tự,
Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Ninh Thuận
đă bỏ đi trong mấy ngày trước, ngày 2/4/1975
được lệnh trở về tái lập việc
pḥng thủ quanh thị xă và điều hành công việc hành
chính trong tỉnh. Theo kế hoạch, lực lượng
Địa phương quân được phối trí pḥng
thủ thị xă, bảo vệ cầu đường, các
cơ sở và tham gia lực lượng giữ ǵn an ninh tại
thị xă và các vùng phụ cận.
Trong ngày nầy (2/4) Tiểu Đoàn 3 Nhảy
Dù với quân số tại hàng
493 người do Thiếu Tá Lă Qúi Trang làm TĐT, Thiếu
Tá Trương Văn Vân làm TĐP, Đại Úy Nguyễn Hữu
Viên Trưởng Ban 3, được cấp tốc không vận
bằng C130 từ phi trường Tân Sơn Nhất đến
Phan Rang để tăng cường lực lượng bảo
vệ pḥng tuyến. Trung Tá Phát liền xử dụng
đơn vị nầy để kiện toàn an ninh cho phi
trường và phối hợp với các đơn vị
Địa phương quân trong việc giữ an ninh cho thị
xả. Lực lượng ṇng cốt để bảo vệ
Phan Rang vẫn trông cậy vào các đơn vị Nhảy
Dù. Với lực lượng mới được
tăng cường và với sự yểm trợ không quân
hữu hiệu, sự chỉ huy thống nhất, an ninh
được tái lập, t́nh h́nh an ninh tại Phan Rang lắng
dịu lại sau những ngày hỗn loạn.
Trong ngày, khi biết có tàu Mỹ đang lảng
vảng ngoài vịnh Phan Rang để chở một số
người,Trung tá Lê Văn Bút dùng trực thăng đáp
trên một trong những tàu đó để chào hỏi và
cho biết hiện t́nh ở Phan Rang. Tiếp đón và trả
lời những điều muốn biết trong lối 1/2
giờ, Hạm trưởng thúc giục Trung Tá Bút rời
tàu. Xuyên qua lời tường tŕnh của Trung tá Bút, rỏ
ràng là trong thời điểm đó, Mỹ không c̣n có ư
định dính líu ǵ nửa đến cuộc chiến
đang diễn tiến.
Ngày 4/4/1975 Trung Tướng Nguyễn Vĩnh
Nghi chánh thức đến Phan Rang cùng với toán truyền
tin kiểm thính đặc biệt thuộc Pḥng 7 TTM, nhận
trách nhiệm pḥng thủ Phan Rang, và thiết lập Bộ
chỉ huy Tiền Phương trong căn cứ của
Sư đoàn 6 Không quân, nằm vào lối 5 km Bắc Tây Bắc
của Thị xă Phan Rang. Ông cho biết là đă được
thượng cấp chấp thuận gởi ra một số
đơn vị chưa bị ảnh hưởng của
việc rút quân để giữ Phan Rang. Bởi tin tưởng
vào lời hứa hẹn nầy, nên Ông rất vui ḷng đảm
nhận chức vụ.
V́ địa thế của Phan Rang có nhiều
thuận lợi cho việc pḥng thủ, nên Trung tướng
Nguyễn Vĩnh Nghi đă quan niệm "Phải chống giữ mặt Bắc từ Du
Long, mặt Tây từ Tân Mỹ
và phải giữ an toàn cho căn cứ Không quân Thành
Sơn, cũng như giữ an ninh cho Thị xả phối
họp với một số đơn vị Địa
phương quân c̣n lại.". Ông đă cho các
đơn vị trấn ngự như sau:
Mặt Bắc, trên Quốc lộ 1 trấn
giữ các điểm cao tại đèo Du Long với một
dăy chiến tuyến hùng hậu do các đơn vị Nhảy
Dù trấn ngự cùng các tuyến phụ tại Ba Râu và Ba
Tháp để ngăn chận mọi cuộc tấn công
hướng vào thị xả, hoặc vào căn cứ.
Mặt phía Tây, trên Quốc lộ 11, án ngữ
tại vùng Tân Mỹ, một chiến tuyến để chận
địch và bảo vệ mặt Tây và Nam của phi
trường.
Bảo vệ an ninh cho thị xả và
phi trường do các đơn vị chủ lực phối
hợp với Địa phương quân phụ trách.
Ngày
3/4/1975, vài tin tức t́nh báo xác nhận VC xuất hiện ở
Vườn Dừa, Ba Ng̣i. Chúng nói với dân di tản v́ có
quân Nhảy Dù của ta ở phía trước nên chúng c̣n nấp
chờ chi viện và khi lực lượng Nhảy Dù rút về
Sàig̣n, chúng sẽ vào tiếp thu Phan Rang. Các phi cơ quan sát
được gởi lên bao vùng và chỉ điểm cho
phi cơ A-37 đánh phá.
Tướng Times, phụ trách an ninh cho
Ṭa Đại sứ Mỹ, đến thăm căn cứ
và nói sẽ sắp xếp cho người của ông thường
xuyên ở lại đây, để chuyển tin ngay về
ṭa đại sứ.
Ngày 4/4/1975 Đại tá Nguyễn Thu
Lương, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 2 Dù,
với 2 Tiểu đoàn 7, 11 và Tiểu đoàn 1 Pháo binh cùng
các Đại đội 2 Trinh sát, Công binh, Quân y, Truyền
tin, Yểm trợ Tiếp vận lần lượt
được không vận bằng phi cơ C130 và C119 từ
phi trường Biên Ḥa đến căn cứ Phan Rang
để thay thế cho LĐ3ND. Trung tướng Nghi liền
giao cho LĐ2ND nhiệm vụ chiếm các cao điểm và
tổ chức tuyến pḥng thủ tại Du Long mặt Bắc
và tại Tân Mỹ mặt phía Tây, tập trung lực lượng
khi cần để chận không cho địch vượt
qua Du Long. Xử dụng Tiểu đoàn 5 Dù của LĐ3ND
hiện có mặt tại căn cứ giữ an ninh cho phi
trường. LĐ2ND ngoài nhiệm vụ pḥng thủ Phan
Rang c̣n thêm nhiệm vụ ḍ t́m các đơn vị thuộc
LĐ3ND c̣n đang thất lạc trong vùng rừng núi Khánh
Dương.
Cùng với cuộc chuyển quân của
Lữ đoàn 2 Nhảy Dù, c̣n có các toán thám sát của Nha Kỹ Thuật đến hoạt
động tại khu vực Đông Bắc và Tây Bắc
Phan Rang.
Theo phân tích của Bộ Tổng Tham
Mưu Quân LựcVNCH, vào thượng tuần tháng 4/75, sau
khi đă chiếm Nha Trang, Cam Ranh và các quận tỉnh Khánh
Ḥa, do bị thiệt hại nặng tại mặt trận
Khánh Dương v́ đụng độ với Lữ
Đoàn 3 Nhảy Dù, Cộng quân cần phải bổ sung
quân số, chưa đủ lực lượng để
mở đợt tấn công lớn vào Ninh Thuận. Các tin
tức t́nh báo nhận được cho biết sư
đoàn 7 CSBVsau khi mở các cuộc tấn công vào Cao nguyên
đă được điều động về hoạt
động tại tỉnh B́nh Thuận. Ngày 6 tháng 4 1975,
sư đoàn 7 CSBV này đă khai triển lực lượng
hoạt động tại phiá Tây Phan Thiết. Trong khi
đó sư đoàn 3 CSBV và một vài đơn vị của
sư đoàn 10 CSBV đóng cách Cam Ranh khoảng 50 km về
hướng Tây Bắc.
*Lữ đoàn 2 Nhảy Dù bảo vệ
pḥng tuyến Phan Rang.
Kể từ ngày 4 tháng 4 1975, pḥng tuyến
Phan Rang được bảo vệ bởi nỗ lực
chính là Lữ đoàn 2 Nhảy Dù với các Tiểu đoàn
3, 7 ,11 Nhảy Dù, Đại đội Trinh sát 2 và các toán
thám sát của Nha Kỹ thuật, lực lượng tiếp
ứng này hoạt động tại hai khu vực Đông
Bắc và Tây Bắc thị xă Phan Rang. Lữ Đoàn Trưởng
Lữ đoàn 2 Nhảy Dù là Đại tá Nguyễn Thu
Lương. Ngoài 3 tiểu đoàn Nhảy Dù nói trên, Lữ
đoàn 2 Nhảy Dù c̣n được tăng cường
Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù (đă tham chiến tại mặt
trận Khánh Dương trong đội h́nh của Lữ
Đoàn 3 Nhảy Dù), và Tiểu Đoàn 1 Pháo binh Nhảy Dù.
Sau khi bàn giao nhiệm vụ cho LĐ2ND,
LĐ3ND được không vận về SàiG̣n để
chỉnh đốn lại đơn vị sau một thời
gian dài tham chiến tại QK1 rồi QK2 với nhiều thiệt
hại.Trung Tá Trần Đăng Khôi, LĐP LĐ3ND ở lại cùng TĐ5ND với
nhiệm vụ chính là ḍ t́m các binh sỉ c̣n thất lạc
tại mặt trận Khánh Dương.
Ngày 5/4/1975 khi đơn vị cuối cùng của Lữ
đoàn 2 Dù đến căn cứ, Đại tá
Lương dùng trực thăng bay quanh vùng thám sát trận
thế và sau đó ông đă điều động các
đơn vị Nhảy Dù giải tỏa đoạn Quốc
lộ 1, từ Thị xă đến Du Long.
- Tiểu
Đoàn 5 Nhảy Dù ( lực lượng tăng phái) tiếp
tục bảo vệ phi trường, tung quân quanh các vùng phụ
cận để càn quét các tên du kích ẩn núp đâu đó
và sẵn sàng tiếp viện cho Đại Đội 2
Trinh Sát. BCH Tiểu Đoàn trấn ngự tại một
đầu cầu hướng về Tân Mỹ trên QL 11
đề pḥng cộng quân tấn chiếm từ phía Tây..
-
ĐĐ 2 Trinh Sát do Trung Úy Sáng làm Đại Đội
Trưởng tiến về phía Tây phi trường khoảng
2 km tái chiếm một tiền đồn do lực lượng
của Đại Hàn thiết lập khi xưa, hiện
đă bị một Trung đội du kích VC tấn chiếm.
-
Tiểu Đoàn 3ND di chuyển bằng đường
bộ từ phi trường tiến về phía Bắc dọc
theo QL1 chiếm Ba Tháp rồi di chuyển khoảng 4 km đến
Bà Râu để bắt tay với TĐ11ND.
Mở đầu chiến
dịch, 3 Đại Đội 31, 32 & 34 dưới sự
chỉ huy của Thiếu Tá Trương Văn Vân TĐP,
dàn đội h́nh theo thế chân vạt; Đại Đội
32 của Đại Úy Đinh Quốc Tuấn đi cánh phải
, c̣n 2 Đại Đội 31 của Đại Úy Lê Bá
Tường và ĐĐ34 của Đại Úy Nguyễn
Khoa Phúc đi cánh trái. TĐ3ND di chuyển theo những vạt
lúa chín vàng hai bên QL1 khoảng 6 km th́ tới Ba Tháp. Tại
đây, Đại Đội 32 đă chạm súng với
toán tiền sát của địch. Cộng quân lợi dụng
3 ngôi Tháp Chàm cổ tại đây để ẩn núp phục
kích đơn vị xung kích của Nhảy Dù. Lực
lượng Nhảy Dù phản công, xung phong tràn qua vị
trí phục kích của địch quân. Sau 15 phút giao tranh
địch quân bỏ chạy để lại tại trận
4 xác, tịch thu 4 AK.47, ta vô sự.
Sau đó, các Đại Đội
TĐ3ND tiếp tục tiến về Ấp Kiền Kiền
, thôn Ba Râu ( núi Đá Mài ), tung quân lục soát và trấn ngự
qua đêm tại đây…Ngày 6/4
BCH/TĐ3ND cùng ĐĐ30 đến đóng quân tại
Kiền Kiền cùng với Đại Đội 32. Riêng
ĐĐ33 của Trung Úy Lâm Mora
đến đóng quân chung với 2 Đại Đội
31&34 tại núi Đá Mài.
- Ngày nầy, Tiểu đoàn 11 Nhảy
Dù được SĐ6 Không Quân trực thăng vận
đến phía Bắc của Ba Râu rồi tiến lên chiếm
thôn Suối Đá, dưới chân ngọn đồi sừng
sững mang tên “Núi Chúa”, và các cao địa trọng yếu
hai bên QL1, đồng thời kiểm soát đoạn
đường QL1 tại quận Du Long.
- Tiểu
Đoàn 7 ND tung quân lục soát và trấn ngự các cao điểm
phía Bắc Phi Trường làm thành phần trừ bị
cho LĐ2ND.
- Tiểu
Đoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù trưc tiếp yểm trợ hỏa
lực cho Tiểu Đoàn 3ND tiến chiếm Ba Tháp và Ba
Râu. Sau khi TĐ3ND chiếm được Ba Râu, TĐ1PBND
di chuyển một Pháo Đội 105 ly đến Ba Râu
để yểm trợ hỏa lực trực tiếp cho
Tiểu Đoàn 11ND tiến chiếm Du Long.
Trưa ngày 6/4/1975 các đơn vị Nhảy
Dù hoàn tất mọi công tác một cách tốt đẹp.
Quân cộng sản rút lui vào hướng núi phía Tây Bắc
hoặc chạy về hướng Bắc. Trên đường
tiến quân, Tiểu đoàn 3 Dù đă đánh đuổi
địch quân chạy tán loạn khỏi Ba Tháp và Ba Râu.
Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù sau khi đáp
xuống phía Bắc Bà Râu, tiến dọc theo mạn phải
QL1 chiếm giữ Du Long và thiết lập nút chận kiểm
soát tại QL1. Để yểm trợ cho TĐ11ND tiến
quân, hai Đại đội của Tiểu Đoàn 3 Nhảy
Dù đă hoạt động dọc bên mạn trái QL1 để
che cạnh sườn cho quân bạn. Tại nút chận Du
Long Tiểu Đoàn 11ND đă bắt sống 7 xe Molotova chở
đầy đồ tiếp tế thuộc đoàn hậu
cần địch cùng một số quân lính VC, v́ ngở
Phan Rang đă bị chúng chiếm, nên cứ ngang nhiên di chuyển.
Tại mặt trận phía Tây, phần lớn
của Tiểu đoàn 5 Dù đă trấn ngự đầu
cầu hướng về Tân Mỹ, để ngăn ngừa
VC tấn chiếm từ hướng nầy. Trong căn cứ,
Đại Đội Trinh sát 2 Dù cũng đánh đuổi
một số quân địch vừa lén lút xâm nhập và chiếm
lại đồn Đại Hàn. Kết quả là trong ngày
nầy, Phan Rang đă hoàn toàn kiểm soát được
t́nh h́nh vốn bị tŕ trệ từ khi Nha Trang và Cam Ranh
thất thủ.
Trong ngày 9/4, Trung tá Lê Văn Bút, Không
đoàn Trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật, chỉ
huy một đoàn 40 trực thăng HU-1B với 12 trực
thăng vơ trang cơ hữu cùng 8 trực thăng Chinook từ
Biên Ḥa biệt phái, lên Khánh Dương t́m kiếm và chở
về các toán quân c̣n thất lạc của Lữ đoàn 3
Dù, thuộc các đơn vị Tiểu Đoàn 2 và 6 Dù cùng
một số quân của Tiểu Đoàn 5 Dù khi mặt trận
Khánh Dương bị tràn ngập.
Cùng đi có Trung Tá Trần Đăng
Khôi, Lữ Đoàn Phó Lữ Đoàn 3 Dù phụ trách liên lạc
với các quân nhân thất lạc, chọn băi đáp để
bốc các toán nầy trở về. Bấy giờ khu vực
Khánh Dương đă trở thành vùng địch kiểm
soát, bay kèm theo có 2 phi đội A-37 yểm trợ.
Kết quả là đoàn trực thăng
đă mang về đến căn cứ Phan Rang, hơn 600
người mà phần lớn là quân nhân của 3 đại
đội TĐ6ND do Thiếu tá TĐP Trần Tấn Ḥa
chỉ huy; cùng 2 Đại Đội thuộc TĐ2ND của
Thiếu Tá TĐT Trần công Hạnh, cùng một số thất
lạc của Tiểu Đoàn 5 với một số ít dân
sự chạy loạn đi theo. Toán nầy vào buổi chiều
được chở toàn bộ vào
Trong thị xă Phan Rang, Đại Tá Trần
Văn Tự Tỉnh trưởng tiếp tục chấn
chỉnh các phần vụ hành chánh, đồng thời lo
chỉnh đốn hàng ngũ các đơn vị Địa
phương quân. Ngoài thị xă, dân chúng hăy c̣n e dè ở lại,
nhưng không tuôn chạy nhiều như những ngày trước.
Cuộc sống có chỉ dấu trở lại b́nh thường,
tạo nhiều phấn khởi.
Sau đó, BTL Tiền Phương Quân
Đoàn 3 được tăng cường hai Trung Đoàn
4 & 5 / SĐ2BB và một số thiết vận xa để
cũng cố vị trí pḥng thủ cho mặt trận nầy.
Chiều ngày 9/4,Trung Đoàn 4 của
Sư Đoàn 2 Bộ Binh, với quân số khoảng 450
người, từ B́nh Tuy theo đường bộ vừa
tới, được điều động thay thế
TĐ5ND pḥng thủ phía Tây Phi Trường Phan Rang và
TĐ5ND được không vận về Biên Ḥa để
chỉnh bị đơn vi.
Các ngày 10 và 11/4/1975 tiếp theo, t́nh h́nh
được yên tĩnh trong toàn bộ vùng Phan Rang. Bộ
Tư Lệnh tiền phương đang trù tính kế hoạch
chiếm lại Cam Ranh để sau đó lấy lại
Nha Trang. Địch sau khi bị đuổi khỏi các
địa điểm xâm nhập đang tập trung ém quân
tại vùng Vườn Dừa ở Cam Lâm chờ đợi
viện quân.
Đêm đêm, bên dăy núi phía Tây, Các chiến
sĩ Dù nh́n thấy những ánh đèn pin lập ḷe của
đoàn quân Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) đang di
chuyển tiến sát bao vây phi trường. Thiếu tá Thành
TĐT/TĐ11ND đă gọi pháo binh bắn suốt đêm
nhưng vẫn không ngăn chận nổi. Vị trí phi
trường Phan Rang nằm sát chân núi, là điểm pḥng thủ
rất bất lợi.
Ngày 12.4.75 bất
trắc trong việc pḥng thủ Phan Rang.
Lệnh từ Quân đoàn III cho biết
sẽ rút Lữ Đoàn 2 Dù vào ngày 13.4.75 và thay bằng Liên
đoàn 31 Biệt động quân với 3 Tiểu Đoàn
31, 36 và 52 BĐQ, và Sư Đoàn 2 Bộ Binh với 2 Trung
Đoàn 4 & 5, cùng 2 Pháo Đội và 2 Chi đội Thiết
vận xa.
Liên đoàn 31 BĐQ vừa rút khỏi
Chơn Thành, sau nhiều ngày tác chiến gian khổ với
nhiều tổn thất, chưa kịp nghĩ dưỡng
quân và bổ sung, th́ được tung ra tiền tuyến
với quân số thiếu thốn trầm trọng.
Sư đoàn 2 Bộ binh cũng vừa
tháo chạy từ Quảng Ngải, vừa tập trung tại
B́nh Tuy và đang được bổ sung quân số th́
được lịnh phải ra Phan Rang, trong khi cả
đơn vị hảy c̣n hoang mang, dao động. V́
chưa kịp bổ sung thiết bị, đơn vị
nầy phải thu lượm một số pháo và thiết
vận xa để mang theo cùng với các Trung Đoàn ra Phan
Rang bằng đường bộ.
Toán Truyền Tin Kiểm thính / Bộ Tổng
tham mưu /Pḥng 7 báo cáo vừa phát hiện rộ lên nhiều
liên lạc vô tuyến của các đơn vị địch
xung quanh Phan Rang.
Chuẩn tướng Lê Quang Lưởng
Tư lệnh Sư Đoàn Dù và Trung Tướng Trần
Văn Minh Tư lệnh Không Quân, cùng đến thám sát công
cuộc pḥng thủ. Cả hai vị đều tỏ ư bất
đồng về việc điều quân nầy. Trung
Tướng Minh nói để căn cứ không quân làm tiền
đồn là sai lầm, v́ khi hữu sự dưới lằn
đạn pháo th́ không thể sửa chửa, trang bị
cho phi cơ có khả năng hành quân như yêu cầu
được. Chuẩn Tướng Lưỡng cũng
nói, muốn giữ Phan Rang làm bàn đạp để lấy
lại Cam Ranh và Nha Trang, tại sao lại rút đơn vị
đang chiến đấu tốt mà thay bằng 2
đơn vị đă từng vội vă rút quân và c̣n
đang chờ đợi bổ sung quân số. Trung Tướng
Nghi cũng bất ngờ v́ không có được những
đơn vị như đă hứa trước lúc ra nhận
trách nhiệm pḥng thủ Phan Rang.
Trong khi đó, Bộ chỉ huy VC họp
tại xóm nhà dân cạnh QL1 cách Phan Rang 4km để bàn kế
hoạch đánh Phan Rang gồm Hoàng Minh Thảo, Tư Lệnh
chiến dịch Tây Nguyên, Nam Long bộ chính trị, Hai Lê Bí
Thư khu ủy 6, Ba Mỷ Tư Lệnh Phó Quân Khu 6, Nguyển
Hửu Anh Tư Lệnh Phó Quân Khu 5, Trần Bá Khuê Tư Lệnh
SĐ3CSBV, Mai Tần Tư Lệnh Phó SĐ3CSBV.
Ngày 13/4/1975 Đại tá Nguyễn Văn
Biết, chỉ huy trưởng Liên Đoàn 31 Biệt Động
Quân và 3 Tiểu Đoàn 31, 36 và 52 cũng vừa từ Biên
Ḥa tới bằng phi cơ C-130. Quân số Liên Đoàn gồm
khoảng 1.000 người. Các đơn vị liền vội
vă đến thay thế vào các địa điểm
đóng quân của lực lượng Nhảy Dù tại Du
Long và Ba Râu. Tiểu Đoàn 31 trám tại Du long, Tiểu
đoàn 36 trám từ Ba Râu đến Cá Đú và Tiểu
đoàn 52 làm trừ bị. Đang thay quân th́ bắt đầu
chạm súng với các toán thăm ḍ của địch.
Sau khi bàn giao khu vực trách nhiệm cho
các đơn vị bạn, Đại Tá Lương
LĐT/LĐ2ND dự định cho BCH Lữ Đoàn cùng
TĐ7ND được bốc đi trước, kế
đến là TĐ11ND rồi TĐ3ND và sau hết là các
đơn vị yểm trợ. Toàn bộ Lữ Đoàn sẽ
di chuyển hoàn tất trong ngày 14/4 ngoại trừ
TĐ1Pháo Binh phải lưu lại vài ngày để yểm
trợ cho Liên Đoàn 31 BĐQ đến khi có đơn vị
pháo binh khác đến thay thế.
Buổi chiều ngày 13/4, toàn bộ
TĐ7ND và các thành phần trang thiết bị nặng của
BCH/LĐ được chuyển vận về hậu cứ
tại Biên Ḥa. TĐ11ND cũng đă bàn giao nhiệm vụ
pḥng thủ Du Long lại cho đơn vị BĐQ. Bộ
chỉ huy Tiểu Đoàn cùng Đại Đội 113 và
ĐĐ114 di chuyển vào trong phi trường. Hai Đại
Đội c̣n lại do Thiếu Tá Giới TĐP chỉ
huy đang chờ thay quân tại mạn phải QL1. Tiểu
Đoàn 3ND vẫn c̣n trú đóng tại Ba Râu.
Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt,
Tư lệnh Sư Đoàn 2 Bộ binh, cùng Trung Đoàn 5 vừa
đến Phan Rang với khoảng 400 quân, được
giao nhiệm vụ bảo vệ mặt
Thị xả được pḥng vệ
bởi khoảng 1 Tiểu Đoàn Địa phương
quân c̣n lại. Cùng lúc, Chuẩn tướng Trần Văn
Nhựt, theo lệnh, đề cử Đại tá
Trương Đăng Liêm Trung Đoàn Trưởng Trung
Đoàn 4 giử chức vụ Tỉnh Trưởng Phan
Rang thay Đại tá Trần Văn Tự.
Sau khi bàn giao khu vực quận Du Long cho
Biệt động quân, BCH/TĐ11ND đang trên đường
rút về phi trường th́ Cộng quân bắt đầu
khai hỏa pháo kích vào đơn vị BĐQ vừa nhận
vị trí, v́ chúng nhận được tin TĐ7ND đă
rút về Sàig̣n hôm qua. Do đó buổi tối, BTL/QĐ3 gởi
công điện khẩn yêu cầu Lữ Đoàn Trưởng
và BCH nhẹ của Lữ Đoàn 2 ND ở lại đi
chuyến bay sau cùng.
Ngày 14/4/1975
để dự pḥng cho những ngày tác chiến sắp
tới, Bộ Tư lệnh Không quân cũng vừa gởi
đến một phi cơ
C-47 để tăng cường phương tiện hành
quân cho Bộ Tư lệnh tiền phương.
Bên ngoài căn cứ, từ sáng sớm,
địch lần lượt tung vài đơn vị cấp
Đại đội, đánh thăm ḍ cơ cấu pḥng
thủ tại Du Long và Ba Râu. Một trong các đơn vị
nầy đă xâm nhập được vào cổng số 2
phi trường về phía Bắc, lúc mờ sáng. T́nh h́nh
đă thay đổi, TĐ11ND và TĐ3ND phải ở lại
chống trả áp lực địch.Phi cơ trực
thăng tuần tiểu phát hiện, cùng với trực
thăng vơ trang và 2 chiếc Thiết vận xa yểm trợ
cho một bộ phận của Tiểu đoàn 11 Dù
đang chờ phi cơ về hậu tuyến, được
gởi ra tiêu diệt toán xâm nhập nầy.
Vùng đất phía ngoài Cổng Số 2
khá trống trải, nên thiết vận xa và trực
thăng vơ trang đă yểm trợ rất hữu hiệu.
TĐT Thành điều chỉnh pháo binh bắn dọn
đường vào các điểm nghi ngờ; vừa tới
ngoài rào phi trường th́ địch quân khai hỏa xối
xả.
Một chiếc M113 bị B40 bắn
cháy, các chiến binh Nhảy Dù
đồng loạt xung phong tấn
công ào ạt, trực thăng yểm trợ cất cánh
trong phi trường đă bắn vào cánh quân địch
đang giao tranh với 2 Đại Đội Dù. Các phi tuần
A37 oanh tạc vào các vị trí súng cối của chúng tại
chân núi sát phi trường, Cộng quân cũng dùng các khói màu
để lừa phi cơ yểm trợ.
Các chiến sĩ Dù dùng lựu đạn
và lưỡi lê đánh cận chiến, với sức chiến
đấu quá dũng cảm của TĐ11NDD, địch
tổn thất rất nhiều, khiến địch hoảng
sợ bỏ chạy rút vào rừng để lại
hơn trăm xác chết và tịch thu được 80
súng đủ loại trong đó có 2 súng cối 82 ly và một
75 ly không giật. Bên ta có 6 chiến sĩ bị
thương vong, 1 Thiết vận xa M113 bị bắn cháy.
Trung Tướng Nghi tưởng thưởng ngay huy
chương Anh dũng bội tinh cho các quân nhân hữu công.
Khoảng trưa, Tướng Nghi ,Tướng
Sang cùng Đại tá Lương chạy xe thong thả từ
phi trường đến Ba Tháp, Ba Râu và Du Long thị sát
công việc pḥng thủ. Tại Du Long Tướng Nghi có tập
họp và trấn an một số Binh Sĩ có mặt tại
đây.
Tóm lại, mặc dầu hôm nay có các cuộc
đánh thăm ḍ của địch, mặt trận Phan
Rang vẫn đứng vững như những ngày qua.
Trận chiến tại pḥng tuyến Phan
Rang16/4/1975
Ngày 15.4.1975 từ sáng sớm địch
liên tục pháo từng chặp vào phi trường. Buổi
chiều khoảng 2 giờ, có phái đoàn của Trung Tướng
Trần Văn Đôn, Tổng trưởng Quốc pḥng và
Trung tướng Nguyễn Văn Toàn,Tư lệnh Quân
Đoàn 3 đến thị sát mặt trận. Sau khi
thăm thị xả, nghe Tướng Nghi thuyết tŕnh t́nh
h́nh và ghi nhận các đề nghị, Trung Tướng Tổng
Trưởng Quốc pḥng tỏ vẻ chú trọng đến
việc pḥng thủ Phan Rang cùng tái chiếm lại Cam Ranh và
hứa sẽ t́m mọi cách bổ sung đầy đủ
mọi trang thiết bị thiếu hụt.
Tại Trung tâm thị xă, lực lượng
pḥng thủ là Trung Đoàn 5/Sư đoàn 2 BB và một Tiểu
Đoàn Địa Phương Quân thuộc Tiểu khu Ninh
Thuận.
Hệ thống bảo vệ từ xa của
pḥng tuyến Phan Rang do Liên đoàn 31Biệt Động
Quân, 1 tiểu đoàn Pháo binh, 1 chi đoàn M 113 phụ trách,
đă bị Cộng quân khởi sự tấn công từ
ngày 14/4/1975.
Trong khi Bộ Quốc pḥng VNCH đang t́m
cách để cung cấp các vũ khí tối cần thiết
cho các đơn vị tại chiến trường th́ tại
mặt trận Phan Rang, Cộng quân tung 3 sư đoàn 325,
968 và SĐ3CSBV tấn công vào căn cứ Không quân Phan Rang
và trung tâm thị xă.
Tại Ấp Ba Râu, sáng sớm ngày 15/7 Cộng
quân đă bắt đầu pháo kích dữ dội quận
đường Du Long ( quân đường di tản) do một
Tiểu Đoàn ĐPQ bảo vệ, bằng đại
pháo 130 ly. Đến 8.00 giờ sáng th́ toàn bộ ấp
Ba-Râu tan hoang và bốc cháy khắp
nơi. BCH/Tiểu Đoàn 3 Dù liên lạc với 3 đại
đội đóng quân tại núi Đá Mài mạn trái QL1 do
Thiếu Tá Vân TĐP chỉ huy th́ được biết
địch quân đông như kiến, có cả tăng và
pháo, đang bao vây nhưng không tấn công vào vị trí của
ta. Lực lượng ND t́m cách tràn xuống đường
th́ địch quân dùng đủ loại hỏa lực mạnh
nhất phản công do đó cánh quân Dù nầy phải lui về
vị trí pḥng ngự và từ đó cánh quân nầy không liên
lạc được với BCH Tiểu Đoàn v́ tần
số liên lạc liên tục bị phá sóng..
Lúc 9.30 giờ, sau khi dập nát Ba Râu,
địch quân chuyển pháo sang ấp Kiền Kiền,
nơi vị trí đóng quân của BCH / TĐ3ND. Quả pháo
đầu tiên của cộng quân đă kết liểu cuộc
đời binh nghiệp hào hùng của Đại Úy Đinh
Quốc Tuấn, một Sỉ quan trẻ tuổi tài ba,
đẹp trai, c̣n độc thân , đánh giặc rất
gan ĺ , ra trường Bộ Binh Thủ Đức cuối
năm 1970, hiện đang nắm ĐĐT/ĐĐ32ND.
Tất cả dân trong ấp đều bồng
bế nhau di tản, địch quân pháo càng lúc càng gia
tăng cường độ ác liệt.. Hầm TOC (Trung
tâm Hành quân ) bị sập, nhiều quân nhân ND bị
thương vong. Thiếu Tá Lă Quí Trang TĐT ra lịnh cho
đơn vị di tản lên núi Ḥn Bà để tránh pháo
địch.
Khoảng 11.30 giờ, một đoàn xe
16 chiếc GMC, chở đầy Quân nhân TĐ36BĐQ đổ
xuống ấp Kiền Kiền để trám vào vị trí
của BCH/TĐ3ND trong khi khói lửa vẫn c̣n mù mịt và
pháo địch vẫn c̣n “cấm chỉ ” để không ai
có thể cản bước tiến quân của chúng. Sau khi
đổ quân, đoàn quân xa quay đầu trở lại
hướng thị trấn Phan Rang th́ đoàn quân cũng bắt
đầu chạm địch. Cộng quân đă dùng tất
cả hỏa lực tăng, pháo và bộ binh tấn công và
bao vây TĐ36BĐQ vừa mới dừng quân chưa kịp
tổ chức pḥng thủ.
Trong khi Cộng quân dùng Tăng và pháo áp
đảo cầm chân các đơn vị VNCH đang thay
quân tại Du Long và Ba Râu, và cũng để né tránh đụng
độ với lực lượng Nhảy Dù pḥng thủ
dọc quốc lộ I, Cộng quân lén di chuyển trong rừng
núi từ hướng Tây và Tây Bắc, chúng cho bọn đặc
công đi ḍ dẫm dọn đường để lực
lượng chánh qui gồm các SĐ325, SĐ3 Sao Vàng và
SĐ968 theo sau, rồi bất thần ào ạt tràn ngập
xuống cánh đồng lúa chín vàng dọc theo QL1 hướng
về phía Nam tiến về thị xả Phan Rang và Phi
Trường Thành Sơn.
Khoảng 2.00 giờ chiều ngày 15/4 cánh
quân của TĐ11ND gồm 2 Đại Đội do Thiếu
Tá Nguyễn Văn Giới, TĐP chỉ huy từ Du Long di
chuyển qua ấp Kiền Kiền (vị trí của
BCH/TĐ3ND, Thiếu Tá Trang TĐT/TĐ3ND có đề nghị
2 đơn vị kết hơp để chiến đấu,
nhưng Th/Tá Giới bảo là đă nhận lịnh đi
đến Cảng Ninh Chử) rồi lần xuống băi
biển, tẻ sâu về hướng Nam dọc QL1 và tại
đây họ không c̣n thấy Giang đoàn 27, chiến hạm
WHEC cùng bất cứ chiếc tàu nào khác tại cảng Ninh
Chử. Măi tới chiều ngày 16/4, đến một băi
cát xa hơn về hướng Nam của thị xả là
Thôn Phú Qúy, đơn vị Dù nầy, gặp và kháng cự
với một toán quân địch khác đến bao vây. Sau
khi thoát ṿng vây với ít nhiều tổn thất, cánh quân Tiểu
đoàn 11 Dù nầy được một đoàn trực
thăng, bốc về an toàn. (Đoàn trực thăng cấp
cứu nầy, dự trù đón Bộ tư lệnh tiền
phương, nhưng v́ Trung Tướng Nghi không thuận
cho đáp v́ lư do an toàn băi đáp, nên trên đường trở
về, mới bốc được toán Dù trên.)
Trong khi đó đến 6.30 chiều ngày
15/4, BCH/TĐ3ND không thể chờ đợi cánh quân phía
trái QL1 v́ chiến xa địch gầm thét mỗi ngày một
gần, Thiếu Tá TĐT ra lệnh cho đơn vị c̣n
lại rút quân đến mỏm phía Tây của núi Ḥn Bà. Kiểm
điểm lại BCH/TĐ và Đại Đội 32 chỉ
c̣n có 73 người luôn cả Thiếu Tá Trang TĐT, Đại
Úy Viên Trưởng Ban 3 và Thiếu Úy Đông, Quyền
ĐĐT/ĐĐ30.
Đến 8.30 giờ đêm, một
đoàn xe tăng 50 chiếc T54 của CSBV từ Cam Ranh chạy
trên QL 1, hướng về Phan Rang, đến ngă 3 thôn Mỹ
Nhơn đoàn tăng nầy tấp vào đậu bên trái
QL1 đối diện với BCH/TĐ3ND đang ém quân tại
triền núi Ḥn Bà.
BCH/TĐ3ND tức khắc liên lạc xin
phi pháo oanh tạc. Chờ đến nửa giờ sau, hai
chiếc phi cơ A37 xuất hiện ném 4 quả bom chính xác
vào vị trí của địch đang dừng quân, chiến
xa địch bị bốc cháy, tiếp theo là những tiếng
nổ phụ của bom đạn kéo dài trên nửa giờ.
Cánh quân TĐ3ND sau đó lặng lẽ rút lên cao hơn
để tránh tầm tác xạ của chiến xa.
Từ chiều ngày 15/4 trở đi,
Trung tướng Nghi liên tiếp nhận được tin
tức cho biết địch sẽ tập trung tấn
công Phan Rang lúc 5 giờ sáng. Địch sẽ tiến quân
theo đường rầy xe lửa và dọc theo quốc
lộ 1 cùng với 300 chiến xa,
phát xuất từ rừng dừa ở Ba Ng̣i. Biết
ư định của địch, Trung tướng Nghi báo
động ngay mọi nơi đề pḥng, đặc biệt
là Liên đoàn 31 Biệt Động Quân có nhiệm vụ án
ngữ ở Du Long.
Đúng như nguồn tin kiểm thính,
sau 8 giờ tối địch gia tăng cường độ
pháo vào phi trường, đồng thời cho di chuyển
suốt đêm rất nhiều đoàn xe chở bộ binh,
thiết giáp, pháo binh v.v…Chúng cố t́m mọi cách vượt
qua đồi Du Long, chủ yếu chỉ để tràn
qua tuyến pḥng thủ của Tiểu Đoàn 31 Biệt
Động Quân mà tiến nhanh về hướng Nam. Tiểu
đoàn 31 đă ở tại chổ chiến đấu gan
dạ mặc dầu đoàn xe địch đă vượt
qua được.
Liên tục bị oanh kích, đoàn cơ
giới của địch tẻ xuống đường,
tắt đèn và lại tiến tới. Phi cơ A-37 không ngớt
tung xuống nhiều đợt oanh tạc ngăn chăn,
nhưng v́ không đủ phương tiện hỏa lực,
soi sáng và hỏa long, nên chúng vẫn tràn qua, sau khi bị tổn
thất khá nặng nề. Bên ta có 4 A-37 bị bắn bể
b́nh xăng phải về đáp. Trận nầy Không
Đoàn 92/Chiến thuật đă tung toàn lực phi cơ
cơ hữu kể cả 4 A-1 của Phi đoàn 530. Các
đơn vị bộ chiến cứ liên miên chạm
địch nên cấp số đạn dược mang theo
đă gần cạn, BTL tiền phương đă gởi
nhiều công điện khẩn cấp cầu cứu về
Quân Đoàn 3 nhưng chẳng thấy hồi âm.
Trong khi đó th́ pháo binh của CSBV liên tục
nả vào phi trường Thành Sơn. Đến 4.00 giờ
sáng ngày 16/4/1975, pháo binh CS bổng im bặt ngưng tác xạ,
một chiếc phi cơ C130 màu tối đen từ từ
đáp xuống phi đạo, đèn đóm vẫn chiếu
sáng chang. 15 phút sau, chiếc C130 cất cánh bay đi, pháo binh
CS lại tiếp tục pháo tới tắp.
Các mặt trận liên tục báo cáo:
địch quân đang xử dụng hàng đoàn xe để
đèn sáng chạy từ Du Long tràn xuống. Cuối cùng,
đoàn xe tắt đèn vượt qua Ba Râu, và chiếm thị
xả lúc7 giờ sáng ngày16.4.1975.
Tại Phi Trường Thành Sơn, lúc vừa
sáng sớm, địch quân lẻ tẻ xâm nhập vào cổng
số 2 của phi trường về hướng Bắc
và kho bom ở hướng Tây. Đến khi pḥng không của
CSBV bắn trúng chiếc phi cơ quan sát O-1 vừa cất
cánh quan sát hành quân, phải trở lại đáp khẩn cấp,
chúng bắt đầu gia tăng pháo kích.
Để dọn đường cho bộ
binh tấn công vào căn cứ Không quân Phan Rang và trung tâm thị
xă, Cộng quân đă pháo liên tục vào các vị trí pḥng ngự
ṿng quanh căn cứ Không quân, đồng thời bắn
phá dồn dập vào khu vực phi cơ đậu và phi
đạo để không cho phi cơ chiến đấu của
Sư đoàn 6 Không quân cất cánh.
Cùng lúc đó, Sư đoàn 325 thuộc
Quân đoàn 2 CS được tăng cường xe
tăng, thiết giáp cùng với Sư đoàn 3 Sao Vàng và
Trung đoàn 25 từ ba hướng tiến công vào trung tâm
thị xă Phan Rang và sân bay Thành Sơn. Lúc bấy giờ
đại đa số cư dân Phan Rang đă di tản vào
Nam, thị xă chỉ c̣n lại quân nhân, cảnh sát và một
số công chức. Lực lượng pḥng thủ thị
xă chống trả quyết liệt, nhưng do Cộng quân
quá đông nên các tuyến pḥng thủ trung tâm thị xă đều
lần lượt bị chiếm.Thị Xả Phan Rang thất
thủ vào lúc sáng sớm.
Mặt khác, Cộng quân lại tung một
Trung Đoàn cắt đứt đường giao thông trên
Quốc lộ 1 ở khu vực Cà Ná cách thị xă Phan Rang
khoảng 48 km về hướng Tây Nam cốt để chặn
đường rút quân của các đơn vị VNCH.
Khoảng 8.00 giờ sáng ( 16/4) . Đại
tá Biết Liên Đoàn Trưởng LĐ31BĐQ, báo cáo là Du
long đă bị tràn ngập và địch đă vào thị
xă khiến cho Trung tướng Nghi phải t́m phương
thế thích nghi.Trung tướng Nghi mời Chuẩn Tướng
Tần Văn Nhựt vào để duyệt xét t́nh h́nh.
Tướng Nhựt cho biết các đơn vị của
ông đang chạm địch và sau đó Ông đi thị
sát mặt trận tại nơi trách nhiệm của
đơn vị ḿnh.
Trong khi Trung đoàn 4 Bộ Binh án ngữ
bên ngoài phía Tây của phi trường và Trung đoàn 5
ngăn chận địch tràn lên từ thị xả, th́
bên trong căn cứ t́nh h́nh bắt đầu có chiều
hướng bất lợi. Địch vẫn giữ mức
độ pháo kích quấy rối từng chập. Nhân có các
khoảng trống giữa những đợt pháo kích, một
số lớn phi cơ đă rời căn cứ. C̣n lại
chỉ có một số rất ít trực thăng vơ trang và
tản thương ở lại đến phút chót.
Khoảng 9.00 giơ sáng, một trực
thăng vơ trang bị hỏa tiển pḥng không SA.7 bắn tại
ngọn đồi gần phi trường. Trung Đoàn 4
báo cáo đang chạm địch. Trong lúc đó xe tăng
địch quân đă lảng vảng ở cổng phi
trường số 1. Đại Tá Lương phải
điều động đơn vị Trinh Sát 2 Dù của
Trung Úy Sáng bảo vệ Bộ Tư lệnh Tiền
phương thanh toán các toán VC lẻ tẻ chạy lạng
quạng gần khu vực bên trong phi trường. Đến
lúc nầy, Trung tướng Nghi vẫn tin tưởng vào
khả năng chiến đấu của Trung đoàn 4 bảo
vệ phi trường và Trung đoàn 5 án ngữ ngăn chận
địch tràn vào cổng số 1 của căn cứ.
Đến khoảng gần 10 giờ,
khi tiếng súng càng lúc càng dồn dập, Tướng Nghi
liền họp cùng Tướng Sang, Đại tá Lương để
tái duyệt xét t́nh h́nh. V́ lẽ mặt trận đă bị
thủng từ Du Long và địch đang hăm dọa
căn cứ nên Trung Tướng Nghi dự tính sẽ dời
Bộ Tư lệnh Tiền phương về Cà Ná để
lập tuyến pḥng thủ mới. Nếu địch chọc
thủng được pḥng tuyến bảo vệ phi
trường, BTL Tiền Phương và các đơn vị
sẽ rút đi khỏi phi trường từ cổng số
1 và Trung đoàn 5 sẽ là đơn vị hộ tống.
Thiếu Tá Nguyễn Văn Thành nhận
lệnh điều động TĐ11ND (-) mở
đường tiến về cổng sau phi trường
để hộ tống toàn bộ BCH tiền phương
QĐ3 và BCH/LĐ2ND rút ra khỏi phi trường Thành
Sơn và đi về hướng Phan Thiết..
Bấy giờ VC đă tràn vào bên trong phi
trường, chúng chạy khơi khơi trên phi đạo,
ḿnh ngụy trang đầy cây lá. Lực lượng
SĐ2BB trách nhiệm bảo vệ căn cứ đă
rút đi mất hết, vị trí pḥng ngự đă bị
bỏ ngỏ và BTL Tiền Phương không thể liên lạc
được với họ. Trung Tá Trần Văn Sơn,
Lử-Đoàn Phó LĐ2ND, phải điều động
các binh sỉ Đại Đội công vụ LĐ2ND cố
gắng. ngăn chận không cho địch tiến vào BCH
hành quân, nhưng Ông đă hy sinh v́ bị trúng nguyên một
băng đạn AK-47 vào bụng.
Khoảng 10.30 giờ sáng, măi đến
khi các toán quân địch sắp tiến vào Bộ Tư lệnh
Tiền phương th́ Trung Tướng Nghi mới ra lịnh
rời căn cứ bằng đường bộ, từng
đơn vị theo đơn vị trưởng ḿnh rút
theo hướng Nam về Cá Ná để lập pḥng tuyến
mới. Trung tướng Nghi, Chuẩn Tướng Sang,
Đại Tá Lương, Ông Lewis (ông nầy nói tiếng Việt
rất lưu loát) chuyên viên Ṭa Đại sứ Mỹ cùng
các quân nhân của Bộ Tư lệnh Tiền
phương, Sư đoàn 6 Không quân, BCH/Lữ Đoàn 2 Dù
cùng các toán quân lẻ tẻ của Liên Đoàn 3I Biệt
Động Quân lối 700 đến 800 người rời
căn cứ tiến ra cổng số 1 về hướng
Nam. Một Trung Đội Công Binh Dù đả dùng chất
nổ phá hàng rào để đoàn người di chuyển
về hướng núi Cà Đú .
Lúc đó Tướng Lê Quang Lưởng,
Tư-Lệnh SĐND, đang bay trên trời, thấy t́nh
h́nh sôi động ông định đáp xuống để
trấn an anh em binh sỉ. Tướng Lưởng là một
vị Tướng gan dạ và trầm tỉnh, đă từng
sống chết với các chiến sỉ Nhảy-Dù trong
chiến cuộc VN.
Thiếu Tá Thành nghe “Lê-Lợi” gọi
Đại Tá Lương không được ( có lẻ trục
trặc máy móc ) anh bốc ống liên hợp trả lời
:
- Tŕnh Lê-Lợi, c̣n ǵ để
đáp xuống, phi trường đă bị tràn ngập..
- Anh bảo Ông Lương cố gắng
cầm cự, tôi sẽ về SàiG̣n tăng cường
quân ra. ( nhưng quá trể rồi,
đâu c̣n phương tiện chuyển vận và trang thiết
bị như thuở nào của một binh chủng hào hùng
bật nhất của QL/VNCH ).
Sau đó Ông đă liên lạc được
với Đại Tá Lương và vị LĐ Trưởng
đă khuyến cáo ông đừng xuống v́ phi trường
đă bị địch quân tràn vào và quân ta c̣n đang chống
trả.
Thiếu Tá Thành bây giờ chỉ huy lực
lượng lui binh. Ông cho lệnh Đại Úy Long dẩn
ĐĐ 114ND đi đầu mở đường và
đoạn hậu là ĐĐ113ND của Tr/Úy Phạm
Đức Loan. Đại Đội Công Binh và ĐĐ2
Trinh Sát ND cầm chân không cho địch đuổi theo
BTL/QĐ3 và BCH nhẹ LĐ2ND cùng bộ tham mưu, Anh em
Nghỉa Quân, Không Quân, Địa Phương Quân và dân chúng
đi theo.
Đoàn quân di chuyển trật tự
đến cổng số 1 khoảng 11 giờ. Tại
đây, v́ không liên lạc được với Chuẩn
Tướng Nhựt, và cũng không gặp được
Trung Đoàn 5 như dự định, nên Trung Tướng
Nghi quyết định theo đường rào phía Nam, di
chuyển dọc theo đường từ Tour Chàm đến
ngă ba An Phước. Đoàn quân an toàn đến Thôn Mỹ
Đức lúc 12 giờ trưa.
Tại phi trường, khi đoàn quân của
Trung Tướng Nghi di chuyển khá xa, th́ Sư đoàn 325
VC phối họp với Sư đoàn 3 VC cùng Sư Đoàn
968 tấn công và chiếm phi trường lúc 11,30 giờ
trưa.
Thiệt hại của Sư đoăn
6 không quân rất đáng kể v́ mất toàn bộ kho bom
đạn và các trang thiết bị phụ thuộc, với
lối 10 phi cơ đủ loại không bay được.
Tuy nhiên tổn thất hành quân tương đối là nhẹ:
1 A-37 rớt, 4 A-37 bị bắn về đáp an toàn, 2 trực
thăng cháy, 1 phi cơ quan sát cùng khá nhiều trực
thăng bị bắn nhưng về đáp được
an toàn.
Tại Thôn Mỹ Đức lúc khoảng
4 giờ chiều, Trung Tướng Nghi được toán
truyền tin của Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù cho hay có 1
đoàn phi cơ xin xác nhận vị trí để xuống
bốc. Lúc bấy giờ, với một đoàn người
gần 700 quân nhân và thân nhân nên khó bốc hết được,
vả lại khi trực thăng đến, khó ḷng mà giữ
được trật tự, chắc chắn sẽ tạo
hổn loạn làm lộ mục tiêu giúp địch đến
vây bắt. V́ vậy Trung Tướng Nghi quyết định
v́ sự an toàn cho đồng đội, từng khổ cực
chiến đấu với nhau mà không v́ an toàn cho bản
thân, nên ra lịnh toán cứu cấp đó không nên đáp, và
chỉ nên đến ngày hôm sau, tại một địa
điểm xa hơn về phía
Bắt đầu từ 5.30 sáng ngày 16/4,
BCH/TĐ3ND v́ không thể đợi cánh quân bên trái QL1 do Thiếu
Tá Vân chỉ huy được, từ đỉnh núi Ḥn Bà
BCH bắt đầu di chuyển về hướng
Đông măi tới tối ngày 18/4 mới tới được
bờ biển. Đến 11.00 giờ sáng ngày 19/4, TĐ3ND
liên lạc được với Đại Tá
Trương Vĩnh Phước Tư Lệnh Phó SĐND
đang bay trên một chiếc C47 ở ven biển. Sau khi
cho vị trí điểm đứng, đến 4.00 giờ
chiều, một đoàn trực thăng bay là là sát mặt
biển vào bốc hết toán quân 73 người ra đảo
Phú Qúy lấy thêm xăng rôi đưa về phi trường
Phan Thiết.
Buổi chiều tối ngày 19/4, đoàn
trực thăng bốc 73 chiến sĩ /TĐ3Nhảy Dù
phải đáp xuống phi trường Phan Thiết để
lấy thêm nhiên liệu. Tất cả quân nhân phải rời
phi cơ. Sau khi lấy nhiên liệu xong các quân nhân ND lại
tiếp tục lên đường. Thiếu Tá Trang ra lịnh
cho Đại Úy Viên phải đi chuyến bay sau cùng để
kiểm điểm cho tất cả mọi người
đều lên phi cơ…
Khi chuyến bay sau cùng chuẩn
bị cất cánh th́ cộng quân bắt đầu pháo vào
phi trường và chiếc phi cơ nầy bị trúng mảnh
đạn không thể cất cánh được, đèn
báo động chớp liên hồi. Phi hành đoàn bèn gọi
một gunship quay trở lại đón họ, c̣n 11 quân nhân
Nhảy Dù kể cả Đại Úy Viên c̣n kẹt lại
giửa phi đạo.
Liên lạc với BCH/TĐ không
được ( có lẻ phi cơ đă đi xa quá tầm
liên lạc của máy PRC.25 ) Đại Úy Viên cho lịnh 10
Quân nhân ND vào pḥng đợi
cùa Phi Trường Phan Thiết. Tại đây họ gặp
đơn vị Tiểu Đoàn 64 BĐQ vừa từ Ban
Mê Thuột di tản về và được chỉ định
bảo vệ phi trường. Tiểu Đoàn Trưởng
64BĐQ là Thiếu Tá Đàng và TĐP là Thiếu Tá Phước.
Các Binh sỉ Nhảy Dù được “mời” qua nhà bếp
xơi một bửa cơm thịnh soạn v́ ba ngày qua họ
đă nhịn đói.
Đại Úy Viên đang ngồi suy tính :
“ḿnh không có bản đồ
vùng nầy, bọn VC tấn công vào
phải làm sao đây?” Bổng có một ông Trung Úy
BĐQ chạy vào hô to, các Anh Nhảy Dù đâu rồi, chạy
đi thôi, VC nó đă chiếm Tỉnh lỵ Phan Thiết rồi,
ở đây không xong đâu. Đại Úy Viên có hỏi Tiểu
Đoàn Anh đi về hướng nào? Anh ta cho biết Tiểu
Đoàn Phó dẩn 2 Đại Đội trách nhiệm canh
gát ngoài cổng phi trường chạy dọc theo QL1 xuôi
Toán Nhảy Dù của Đại Úy Viên
c̣n 11 người, lúc 8.00 giờ tối, một Binh sĩ
đă xin phép về ghé qua nhà ngoài Tỉnh lỵ Phan Thiết
để thăm Cha Mẹ, v́ hai năm nay từ ngày đầu
quân anh không có dịp về thăm.
9.20 giờ đêm, Đại Úy Viên dắt
9 binh sĩ c̣n lại băng qua phi đạo nhắm
hướng biển mà đi. Đúng như Anh dự
đoán, phía sau TTHL/ĐPQ cạnh phi đạo, tuột xuống khoảng 100m là bờ biển.
Đại Úy viên ra lịnh cho các Binh Sĩ phải đeo
sát nhau kẻo bị lạc, 3 máy PRC25 phải cẩn thận
đừng để hư hỏng. Chỉ để một
chiếc mở máy trên tần số của BTL/SĐND c̣n 2
chiếc c̣n lại vặn tắt để tiết kiệm
điện tŕ.
Toán Nhảy Dù lần chạy cách bờ
biển khoảng 4 đến 5 thước hướng về
phía Nam v́ đi như vậy đỡ phải chồn chân
và có nước để uống cầm hơi. Chạy
được khoảng 3 km th́ bắt kịp 3 Đại
Đội BĐQ của Thiếu Tá Đàng. Thiếu Tá
Đàng muốn phối hợp với Đại Úy Viên
để bàn kế hoạch di chuyển. Nhưng Đại
Úy Viên trả lời “Thiếu
Tá c̣n quân đông nên tránh vô trong lợi dụng đêm tối
mà di chuyển, c̣n chúng tôi chỉ c̣n 10 với 6 khẩu M16,
một colt, 3 máy PRC25 và hơn nữa chúng tôi không c̣n sức
để chiến đấu lâu dài. Vậy để chúng
tôi cứ chạy sát bờ nước bên ngoài nầy
nếu gặp VC phục kích chúng tôi sẽ cùng nhào lên một
lượt để giải quyết trận chiến chứ
không c̣n giải pháp nào khác để chọn lựa.”
Toán của Đại Úy Viên tiếp tục
chạy suốt đêm đến 6.00 giờ sáng ngày
20/4/1975 th́ thấy ngọn hải đăng tại mũi
Kê Gà thuộc địa phận tỉnh B́nh Tuy. Đại
Úy Viên cho cả toán dừng chân nghĩ ngơi. Trong lúc
ăn uống, Đại Úy Viên lấy máy PRC25 ḍ t́m các
đài bạn. Bổng nhiên nghe được một
đài rất rơ ràng: “Hải Âu đây Hải Đăng…”
Đại Úy Viên bèn dùng bạch văn chen vào hệ thống
xưng danh ND và yêu cầu đài Hải Đăng tiếp
chuyển lời cầu cứu về BTL/SĐND.
Chờ khoảng 5 phút Hải Đăng
trả lời bảo :“Ông già của
Anh ( Chuẩn Tướng Lưỡng) hiện đang ở
tại ṭa tỉnh B́nh Tuy, 30 phút nửa chuồn chuồn sẽ
đến với các Anh.”
Sau đó không lâu một trực thăng
chở Trung Tá Lê Văn Mể Trưởng Pḥng 3 SĐND
đến bốc hết 10 chiến binh Nhảy Dù nầy
về ṭa tỉnh B́nh Tuy đúng 1.00 giờ trưa và Đại
Úy Viên vào tŕnh diện Chuẩn Tướng Tư Lệnh
SĐND tường tŕnh diển tiến.
Cuối đời chiến Binh :
Lúc 9 giờ tối ngày 16/4, dưới sự hướng dẫn của Đại tá Lương, đoàn người thuộc BTL Tiền Phương QĐ3 bắt đầu rời Thôn Mỹ Đức.Chưa đi được bao xa th́ bị địch phát hiện và bao vây. Nhờ trời tối, hai đại đội Nhảy Dù bắt đầu xung phong đột phá ṿng vây; một trận cận chiến diễn ra khốc liệt. Các Chiến sỉ nhảy dù nhận được lịnh xung phong càn qua xác địch và trực chỉ hướng Phan Thiết. Tr/Úy Loan dẩn Trung đội 1 đi đầu, binh sỉ nhào lên pháo tháp tăng của địch tung lựu đạn tiêu diệt xạ thủ bên trong. Trung Đội 2 và 3 dàn hàng ngang dùng M72 và MX202 tiêu diệt 3 chiếc khác kế bên. Địch hốt hoảng, bắn loạn xạ, bất ngờ một một loạt AK47 bắn trúng ngực Loan, khiến người Anh bị tung ngược về sau. Thành nhảy lên kéo Anh về đường thông thủy và Anh chỉ nghe được tiếng th́ thào trăn trối lần chót của người Đại Đội Trưởng dũng cảm đă từng theo Anh lập nhiều chiến công cho TĐ11ND.
- Vĩnh biệt đích thân…
Thở ra vài hơi, Loan nói trong nghẹn
ngào:
- Nhắn với Vợ Con em là em
nhớ thương họ vô cùng !
- Vĩnh… biệt !
Thành tức giận điều động
toàn bộ binh sỉ Tiểu Đoàn c̣n lại, quyết tâm
tận diệt để rửa hận. Nhưng trong lúc
hăng hái xung phong, một mảnh lựu đạn đă
sớt qua mặt và tay làm máu chảy ra ướt mờ cả
mắt. Thành bảo Sỉ Quan ban 3 điều động
các binh sỉ thuộc cấp rút đi, hảy để
Anh cùng các chiến sỉ bị thương ở lại
đoạn hậu kẻo liên lụy chung cả đám.
Nhưng các đàn em làm sao bỏ được Ông Thầy.
-
Ông Thầy không thể ở lại , tụi
em d́u Ông Thầy đi !
Thiếu Tá Thành báo với Đại tá Lữ
Đoàn Trưởng rằng ông đă bị thương,
nhờ ông d́u dắt đoàn quân, anh không c̣n khả năng
chỉ huy. Các chiến sĩ Dù là những người từng
trải trong chiến trận, lợi dụng đêm tối,
từng tổ một phân tán rút về hướng Phan Thiết.
Đại tá Nguyễn Thu Lương cho
toán khinh binh Nhảy Dù mở đường. Đoàn quân
đi được hơn 500 thước th́ thấy xác
địch ngổn ngang dọc 2 bên đường. Cộng
quân chẳng canh gác ǵ cả, có lẽ quá mệt mỏi do
nhiều ngày di chuyển từ xa và phải chiến đấu
triền miên.
Bất ngờ trên 2 chiến xa có đại
bác pḥng không 37 ly; lúc đó có một tên đang ngồi hút
thuốc lá ...Thấy tiếng động, hắn bấm
đèn Pin và hỏi:
- Ai đó ?
Toàn thể chiến sĩ Dù khai hỏa
và hô xung phong tràn qua, dẫm cả bọn bộ đội
đang nằm ngủ; rồi chạy băng qua đường
tiến vào vùng rậm rập hướng về sông Dinh.
Trong khi rút chạy mọi người
nghe rơ tiếng địch la ó lung tung, những khẩu
pḥng không bắn ria bậy loạn xạ, làm lá cây, lá dừa
rụng rơi tơi tả. Các chiến sĩ Dù co ḿnh chạy
băng qua đường nhựa, tới khu ḷ đường
gần bờ sông Dinh. Tạm thời dừng lại để
cho khinh binh đi thám sát con sông trước mặt (có một
số tổn thiệt v́ bị địch bắn vói theo).
Đại tá Lương dẫn đoàn
người (đủ mọi thành phần) qua sông được
hơn 200 người, kiểm lại th́ không thấy
Tướng Nghi, Tướng Sang, và ông Lewis. ĐT
Lương và toán binh sĩ Nhảy Dù phải trở lại
chỗ cũ, đến gốc cây xoài lớn cách
đường thông thủy khoảng 50 thước, thấy
hai vị Tướng và người Mỹ cùng sĩ quan
tham mưu c̣n đang kẹt lại tại đó. Sau đó
mọi người trực chỉ hướng bờ sông
Dinh.
Lúc nầy các chiến sĩ Dù đi một
cách dè dặt v́ địch c̣n nằm ngủ trên đường,
bây giờ khi dẫn toàn bộ đám đông qua th́ đại
đội lính Dù dàn quân bắn áp đảo để
địch không kịp ngẩn đầu bắn vào
đoàn người di tản. Sau khi tới bờ sông, nhờ
nước ṛng (sâu nhất chỉ tới bụng) nên có thể
lội qua bên kia bờ được.
Đoàn người di tản gấp rút
qua sông v́ sợ địch phản kích, mặc dù Cộng
quân lúc đó đang mê ngủ, lại bị tấn công ào ạt
dữ dội bởi các chiến sĩ Dù nên phải chém vè
chạy bán mạng (và cũng không dám bắn ngang v́ sợ bắn
nhầm với nhau).
Hai vị Tướng và người Mỹ
vẫn không chạy theo kịp toán quân Dù. Sau khi quân Dù mở
đường máu vượt qua đường th́ địch
giàn các chiến xa theo đường và đồng thời
mở đèn pha chiếu vào khe núi sáng như ban ngày!
Rồi địch tiến tới khe suối,
người bị bắt đầu tiên là Tướng
Sang, tiếp đến là Trung tướng Nghi, anh cố vấn
Mỹ, kế bên là anh cận vệ tướng Nghi. Sau
đó chúng bắt luôn BS Tiến, y sỉ trưởng
LĐ2, Đại úy Đô ĐĐT Công Binh, và những
người kẹt dưới khe suối.
Thiếu Tá Thành Râu được một
toán nhỏ lính Dù trong đó có y tá theo bảo vệ và
chăm sóc vết thương, đi tới sáng th́ dừng
lại nghỉ ngơi trong một bụi rậm. Thầy
tṛ chỉ c̣n nh́n nhau cười cho số phận người
chiến sĩ Dù mới nếm mùi thất bại đầu
tiên trong t́nh h́nh đất nước đang tới hồi
đen tối!
Toán theo Đại tá Lương vượt
qua sông Dinh tới nghỉ tại một ngôi chùa cổ; lúc
đó là 1 giờ khuya ngày 17/4/1975. Trong số hơn 200
người qua sông, không có những sĩ quan tham mưu của
Quân đoàn III, Sư đoàn 6 Không quân, Sư đoàn 2 Bộ
binh, và Biệt Động Quân.
Nghỉ ngơi khoảng nửa giờ
th́ Đại tá Lương cho lệnh Thiếu úy Bé dẫn
10 binh sĩ Dù lội trở lại t́m cách hướng dẫn
2 vị Tướng và anh Mỹ ṭa Đại Sứ qua
sông. Phần c̣n lại sẽ bố trí và chờ đợi
tại ngôi chùa nầy.
Nhận lệnh, mặc dù mệt mỏi
suốt đêm, 10 chiến sĩ Nhảy Dù cũng thi hành lệnh
nghiêm chỉnh. Đó là kỷ luật trong binh chủng, nhờ
vậy Nhảy Dù gây được nhiều niềm tin cho
đồng bào miền
Nhưng! sau 2 lần bị bất ngờ
và bị tổn thất, địch đă đề cao cảnh
giác. Nên khi toán quân Dù vừa qua sông tiến tới gần ḷ
đường th́ địch khai hỏa dữ dội. Bé
điều động anh em bắn trả mănh liệt, một
chiến sĩ đă hy sinh ngay loạt đạn đầu,
Bé bị thương nơi bắp đùi, anh biết trung
đội đang lọt vào ṿng vây, với chiến xa và
pḥng không địch bắn tới tấp, Bé bảo Trung sĩ
Tuy dẫn anh em rút lui về bên kia sông. Anh không thể chạy
được nếu dây dưa th́ chết cả đám,
TS Tuy c̣n chần chờ, nhưng Bé bảo đây là lệnh.
Rồi Bé ở lại mở chốt lựu
đạn ném vào quân địch, bắn tới hết
đạn, th́ địch quân tràn tới; anh định mở
chốt an toàn trái lựu đạn chót để chết
chung với địch! Nhưng Tuy đă dẫn binh sĩ
đi được một đoạn, rồi không
đành nên bảo binh sĩ quay lại, vừa lúc thấy
Bé định tự sát, nên anh nhào tới chụp tay và cố
đỡ Bé chạy về bờ sông.
Họ đi được chừng 100
thước, th́ bị địch theo kịp. Tuy và các chiến
sĩ Dù bắn trả tới tấp chận đường
tiến quân của địch. Thấy t́nh h́nh không thể
cầm cự lâu, Tuy vừa bị một viên đạn
xuyên qua đùi, anh cùng Thiếu úy Bé bảo binh sĩ anh em
để đạn dược lại và lui về báo cáo,
rồi mỗi người thủ 2 khẩu M72 và M16, cùng
nhiều lựu đạn do anh em để lại.
Hễ mỗi lần địch nhào lên
th́ Bé và Tuy kẻ bắn M16 người thụt M72, khiến
địch tổn thất nặng nề. Khi thấy 2
người bắn hết đạn, địch quân tràn
lên và bị lựu đạn ném ra. Cộng quân tức giận
vội bắn hàng loạt B40 bứng bay mô đất che 2
chiến sĩ Dù dũng cảm; TS Tuy ném hết các quả
lựu đạn, rồi cố kéo Bé về bờ sông,
nhưng không kịp nữa; địch tràn tới nhanh và
chĩa súng bắn vào hai người như để trả
hận!!! Nguyên thân h́nh Tuy và Bé bị bắn tung lên, chết
ngay tức khắc!
Đại tá Lương nghe tiếng nổ,
biết đó là điềm chẳng lành; quả nhiên khoảng
20 phút sau, toán quân lội trở lại, 10 người chỉ
c̣n 7. Thiếu úy Bé, Trung sĩ Tuy cùng 1 binh sĩ đă hy
sinh, anh Hạ sĩ phụ tá bị thương ở cánh
tay trái, và một binh sĩ bị thương ở đùi.
Suy nghĩ một lúc, vô kế khả
thi; Đại tá Lương đành dẫn hơn 200 quân
nhân đủ loại binh chủng; lấy phương giác
băng đồng về hướng sông Quao. Đoàn quân
đi khoảng 2 giờ rưởi th́ tới nơi. Sông nầy
rất hẹp và đầy bèo lục b́nh...Hai khinh binh
đi đầu lội thử, thấy chỗ sâu nhất
cũng chỉ tới ngực. Toàn bộ qua được
bên kia bờ, mọi người đều quá mỏi mệt,
chia từng toán nhỏ nằm trong các lùm bụi rậm rạp
nghỉ ngơi.
Khoảng 6 giờ sáng, trời c̣n mờ
sương, anh lính truyền tin đánh thức Đ/T
Lương dậy và trao ống liên hợp cho ông nghe...Từ
trên không, một chiếc L19 của Quân đoàn III đang
bay lượn ṿng ṿng phía bờ biển và gọi máy liên tục.
Ông trả lời và xưng danh hiệu; vị sĩ quan
trên máy xưng là Đại úy Tango (nghĩa chữ T đứng
đầu tên), và đồng thời yêu cầu chuyển
sang tần số giải tỏa ...
Sau khi xác định mật hiệu,
Tango đă biết chính là LĐT/LĐ2ND và vị trí điểm
đứng. Anh ta hỏi có bao nhiêu người.. Đ/T
Lương nói khoảng 250 người (chỉ phỏng
đoán). Đại úy Tango cho biết có 22 trực thăng
chở quân, và mỗi chiếc chở được tới
14 người. V́ tất cả chỉ c̣n súng và ít đạn
với mấy vật dụng sơ sài như Poncho, ba lô
đựng ít lương khô, nên có thể chở được
14 người.
Đại
úy “T” cho biết phải sẳn sàng trước 7 giờ
sáng ngày 17/4/75. Rồi chiếc phi cơ quan sát rời vùng;
đoàn quân di tản được phân phối, xếp mỗi
toán 14 người theo thứ tự hàng dọc để
trực thăng dễ bốc. Chiếc cuối cùng sẽ
bốc quân gần sát bờ sông Quao (trong đó có Đ/T
Lương và 2 nhân viên truyền tin, tất cả 14 người
nầy đều là quân Dù).
Khoảng 40 phút sau, phi cơ quan sát trở
lại, Đại úy “T” hỏi Đại tá Lương
cho biết vị trí của Tướng Nghi và Tướng
Sang đang ở đâu? Đ/T Lương trả lời:
“Đă thất lạc từ đêm hôm qua, tại khu rừng
mía, để về đến nơi tôi sẽ tŕnh bày chi
tiết”...
Mười lăm phút sau, từ trên phi
cơ Đại úy “T” truyền xuống cho biết lệnh
của tướng Tư Lệnh Quân Đoàn III (Nguyễn
Văn Toàn): “207 (danh hiệu truyền tin của Đ/T
Lương) phải trở lại kiếm hai ông Three Stars
Nectar và One Star Sierra; nếu không thi hành khi về sẽ ra
toà án quân sự và sẽ không c̣n 3 bông mai bạc nữa
đâu!!!”
Lúc đó Thiếu tá Đông ( một SQ bộ
binh ) và tất cả các quân nhân sĩ quan, HSQ, và binh sĩ
đứng gần đều nói: “Đại tá cứ về,
việc làm suốt ngày và đêm hôm qua chúng tôi đều biết,
nếu có phải ra ṭa án, chúng tôi sẽ cùng ra làm chứng
... Chúng ta đă làm hết sức, mà không đạt
được th́ đành chịu thôi!”
Thực tế ông đâu có bỏ chạy
một ḿnh, đă đưa 2 vị ấy ra khỏi phi
trường; rồi đi bộ suốt ngày mới tới
Cà Ná. Và chính Tướng Nghi cũng đă từ chối
không cho trực thăng xuống bốc BTL Tiền
phương và SĐ6KQ lúc 17 giờ chiều ngày 16/4/75.
Suy nghĩ một lúc, Đ/T Lương
gọi máy nói với Đại úy Tango ở trên phi cơ
L19 là: “Tôi và một số quân
nhân Dù sẽ trở lại vùng chạm địch hôm qua
để ḍ la và t́m 2 vị Tướng. Tôi yêu cầu cho
trực thăng bốc tất cả hơn 200 người
hiện đang đứng với tôi về QĐ3 để
họ tŕnh bày với Trung tướng Tư lệnh”
...Sau đó ông dặn ḍ và nói lại nhờ Thiếu tá
Đông và 1 Thiếu úy về gặp Trung Tướng tŕnh
bày lại mọi sự.
Đại tá Lương chọn 16 chiến
sĩ Dù chia làm 2 toán do Trung sĩ Hùng và HSI Toàn làm trưởng
toán, cùng với 2 máy truyền tin để chờ đêm tối
trở lại. Khoảng 1 giờ sau, trực thăng xuống
bốc trên 200 quân nhân đủ mọi binh chủng bay
đi...
Tối 17/4/75, 17 người trở lại
chỗ chạm súng tại khu vườn mía, vườn
xoài, và đường thông thủy. Ban đêm phải
đi ngoài đồng trống theo phương giác. Không dám
đi gần đường và làng mạc, v́ chó sủa sẽ
bị lộ. Khoảng hơn 1 giờ khuya, toán nầy về
tới chỗ cũ, cảnh vật rất lặng lẽ
và yên tĩnh. Những cành cây và trái dừa đă bị súng
pḥng không 37 ly bắn rơi rụng đêm qua nay vẫn c̣n
nguyên; mùi khói súng c̣n nồng nực...
Đ/T
Lương kiếm vài ngôi nhà gần đó, cho anh em bố
trí nghe ngóng; nh́n trong nhà dưới ánh đèn dầu mờ,
thấy toàn những ông bà già và trẻ nhỏ .. Anh gơ cữa
vào để hỏi thăm; vẻ mặt họ rất sợ
sệt. Đại tá Lươmg hỏi một ông lăo:
- Chúng tôi là anh em quân nhân Dù về đây
t́m người quen... Vậy bác cho biết hồi đêm
đánh nhau ở đây; rồi các quân nhân Cộng Ḥa đi
về đâu?
Ông lăo trả lời với giọng run
run:
- Trời ơi! mấy cậu sao c̣n ở
đây ? Họ đông lắm, đi mau đi, đừng ở
đây nguy hiểm lắm.
Đ/T Lương hỏi thêm:
- Vậy hồi đêm đánh nhau ở
đây có nhiều người chết và bị
thương không?.
- Chết, nghe nói mấy chục người,
và lúc gần sáng, họ (tức VC) tràn vào đường
khe suối bắt được một số lính.
- Bác có nghe nói bắt được sĩ
quan nào cấp Tướng không?
- Không nghe.
- Vậy c̣n dân chúng và gia đ́nh binh sĩ
ra sao ?
- Họ đi ra chợ Phan Rang, theo
đường lộ, đông lắm.
Đ/T Lương tiếp tục hỏi
thêm vài điều nữa rồi cám ơn và chào từ giả.
Sau đó, họ vượt sông Dinh trở
lại, và kỳ nầy nhắm hướng núi để
đi cho an toàn. Mọi người c̣n trên ḿnh khoảng 3
ngày lương khô (gạo xấy, cá, và thịt hộp).
Suốt 2 ngày 18/4 và 19/4, 17 người
đi theo vùng đồi cát, khát nước vô cùng v́ nắng
quá gay gắt. Mỗi người bẻ trộm vài cây mía
để giải khát...Nhưng càng ăn lại càng khát
thêm... Chiều ngày 19/4, họ vượt đường
xe lửa, đổ xuống vùng đồng bằng;
hướng về biển để kiếm ghe xuồng,
xuôi về Cà Ná. Đi được khoảng 1 cây số
th́ 2 khinh binh dẫn đầu ra hiệu có địch phía
trước. Tất cả kiếm nơi bố trí để
chuẩn bị chống trả.
Ḅ lên quan sát, trung sĩ Hùng trở lại
cho biết: h́nh như không phải địch, thấy họ
mặc áo màu xanh bộ binh và có vẻ cũng đang ẩn
nấp. Trung sĩ Hùng dẫn 5 binh sĩ ḅ lại chỗ bụi
rậm gần đó hô bảo đầu hàng... Họ liền
giơ tay và đứng dậy ra khỏi chỗ núp.
Th́ ra là 7 chiến sĩ Địa
phương quân, họ vẫn c̣n nguyên súng đạn. Gặp
quân Dù họ mừng như gặp được cứu
tinh, và đoàn quân có thêm 7 trợ thủ nữa! Như vậy
tổng cộng là 24 người tất cả. Để
7 binh sĩ Địa phương quân đi đoạn hậu,
mọi người nhắm hướng Đông t́m
đường ra biển. Suốt ngày 19/4, họ đi êm ả;
tuy nhiên tối đến nh́n về phía quốc lộ I thấy
đèn xe của địch đang chạy về hướng
Cà Ná. Đ/T Lương định ra đến biển rồi
chắc phải xuôi ngược về Phan Thiết, chứ
không thể lên Cà Ná được nữa v́ địch
đang di chuyển về hướng nầy.
Đêm 19/4, tất cả dừng quân và
nghỉ ngơi lấy sức, để sáng mai có thể
đi một mạch tới quốc lộ I và băng về
hướng biển. Sáu giờ sáng ngày 20/4, mọi người
bắt đầu di chuyển sau khi ăn cơm sấy và
thịt hộp lót dạ. Khoảng 9 giờ th́ toán quân chỉ
c̣n cách QLI độ 2 cây số, họ di chuyển 2 hàng dọc;
đi theo các bờ ruộng mía cao quá đầu người.
Khi c̣n cách QLI khoảng 500 thước, nh́n qua khoảng trống
thấy từng đoàn xe địch chở đầy
quân; trên nóc xe và 2 bên vẫn c̣n cắm cây lá ngụy trang.
Mọi người đành bố trí
trong ruộng mía, chờ trời tối sẽ băng qua
đường, lúc đó toán đầu của Trung Sĩ
Hùng chỉ cách đường 300 thước; không thể
chạy nhanh qua đường được, v́ bên kia là
khoảng trống khá xa. Nếu họ liều băng qua có
thể sẽ bị du kích địa phương phát giác;
v́ trên đường thỉnh thoảng thấy vài tên du
kích đeo súng trên vai và chạy xe đạp qua lại.
Bất ngờ vào 10 giờ rưởi
sáng, có khoảng 1 đại đội (chắc là lực
lượng du kích địa phương) đi bộ dọc
theo hai bên đường.
Bỗng có một tên trong bọn hô to :
- Ê! Thấy tụi bây nấp trong ruộng
mía rồi, ra hàng th́ sống.
Sự thực ruộng mía rậm và cao,
mà mọi người th́ nằm theo các đường rănh
sâu giữa 2 luống mía; như vậy làm sao tên đó có thể
thấy được; hơn nữa toán đầu c̣n
cách QLI tới 300 thước. Nó chỉ hù dọa để
nếu ai nhát gan sẽ bỏ chạy hoặc ra hàng.
Đột nhiên có 2 lính Địa
phương quân nằm ở phía sau toán quân Dù khoảng
hơn 100 thước, đứng dậy chạy về
phía núi; vừa chạy vừa bắn ngược lại
hướng địch. Thế là địch bắn xối
xả về phía ruộng mía. Thấy t́nh trạng bất lợi,
tất cả ḅ lui về phía sau và giữ im không bắn trả.
Có lẽ địch nghĩ trong ruộng
mía chỉ có vài người nên bắn hoảng để cầm
chân mà bỏ chạy. Cộng quân dàn đội h́nh hàng ngang
tiến vào ruộng mía để lục soát. Địch tới
càng lúc càng gần, 50 thước, 30 thước, 20 thước,
10 thước,... toán quân di tản bắt buộc phải
nổ súng tự vệ, mấy tên đi đầu bị
trúng đạn ngă liền. Cộng quân vội dừng lại
lấy đội h́nh rồi đồng loạt khai hỏa
bằng đủ loại súng vào quân ta.
Súng cối, B40, thượng liên, và đại
liên bắn ào ào; nhờ các bờ luống mía cao, nên tránh
được đạn thẳng, nhưng những loại
B40 và súng cối bắn vào; khiến hai chiến sĩ Dù bị
thương. Trung Sĩ Hùng vừa lao ḿnh lên phóng một
lượt 2 trái lựu đạn, th́ anh bị nguyên một
tràng AK47 trúng ngực; tuy bị thương nặng nhưng
Hùng vẫn c̣n tơ ḷng khí khái khiến Đại tá
Lương lúc nào cũng nhớ đến cử chỉ
hào hùng của anh: Hùng vừa đưa súng vừa nói:
- Ông thầy chạy đi tôi sẽ chận
chúng nó lại và chết chung với tụi nó bằng trái lựu
đạn nầy!
Đại tá Lương c̣n bịn rịn,
nước mắt tuôn trào v́ thương cho người
chiến sĩ Dù trung can nghĩa dũng! Hùng lấy tay khoát
bảo chạy mau. Súng địch bắn dữ dội,
thêm 2 chiến sĩ Dù bị tử thương! Hai người
đệ tử đứng gần thấy địch sắp
tới, vội kéo Đại tá Lương chạy về
hướng núi.
Rồi ruộng mía bị cháy v́ đă
đến thời kỳ sắp chặt, đốn về
làm đường, nên lá mía đă khô nhiều; gặp các loại
đạn lửa, B40, và B41 nên phát cháy dữ dội. Đại
tá Lương và 2 chiến sĩ Dù bị nóng quá vội chạy
ngược về phía đồi núi; trong 5 chiến sĩ
Địa phương quân có 2 bị tử thương, 3
người c̣n lại bị bắt tại chỗ (trong
đó có 1 anh bị thương bả vai)!
Có lẽ qua lời khai của mấy
người bị bắt, nên sau đó ít phút, nghe tiếng
loa gọi của địch :
- Chúng tôi biết có anh Đại Tá và ít
lính Dù trong khu vực nầy, nếu ra hàng th́ sống,
được về với gia đ́nh, c̣n chống lại
sẽ chết.
Trong 2 người truyền tin có 1 anh bị
tử thương, và chiếc máy c̣n lại cũng hư
luôn, chỉ nghe được nhưng không phát được.
V́ nghe có Đại Tá Dù, địch tăng cường
quân thêm từ các đoàn xe phía sau; quân số đông đến
cả tiểu đoàn, và bao vây toàn khu vực vườn
mía mà quân Dù đang ẩn nấp.
Bây giờ chỉ c̣n lại 10 người,
họ chia ra làm 3 tổ, trấn giữ 3 hướng với
tiêu lệnh bắn rất ít để tiết kiệm
đạn; mong cầm cự chờ đêm tối sẽ
t́m cách thoát thân. Lúc đó, trong máy truyền tin Đại tá
Lương nghe tiếng gọi danh hiệu của anh,
nhưng trả lời th́ phi cơ quan sát không nhận
được!
Khoảng 2 giờ chiều, địch
bắn súng cối rất nhiều, trong đó có cả lựu
đạn cay! V́ không có mặt nạ chống hơi cay,
nên mọi người liều mạng vừa bắn trả
vừa chạy nhanh về hướng núi. Mỗi toán chạy
một ngă... Chạy hết ruộng mía th́ đến vùng
ruộng rẫy trồng toàn dưa. Lúc đó Đại tá
Lương bị tai ù, mắt cay thốn rất khó chịu;
anh vừa chạy vừa dụi mắt, đến một
vũng nước (có lẽ dùng để tưới cây);
tổ của ông c̣n lại 3 người, họ vội úp
mặt vào nước vừa uống vừa rửa ... rồi
mệt quá nằm ngủ mê thiếp lúc nào không hay. Khi tỉnh
dậy, thấy 3 tên bộ đội VC đang cầm AK47
chĩa vào 3 người. Một tên hỏi:
- Các anh có thấy thằng đại tá
Dù chạy hướng nào không ?
Đ/T
Lương chỉ phía trái nói:
- Chạy về hướng kia!
Tên
vừa rồi, có lẽ là tổ trưởng trong 3 đứa,
lại hỏi:
- Vậy anh là ai ?
Lúc gần tới vũng nước có mấy
bụi cây rậm rạp, nên 3 người đều cởi
dây đạn và súng dấu trong bụi cây; định uống
nước rửa mặt xong sẽ ngồi nấp trong bụi
đợi mờ tối mới đi tiếp. V́ từ
đó vào núi rất xa, mà ruộng rẫy và băi trống từ
đó kéo dài tới núi. V́ vậy địch thấy họ
chỉ có người không; chẳng có súng và nón sắt chỉ
có chiếc địa bàn c̣n đeo trên cổ Đ/T
Lương.
Tên trưởng toán hỏi anh:
- Anh làm ǵ trong quân Ngụy ?
- Tôi làm Trung sĩ phát lương,
đang trên đường về nhà th́ thấy các anh bắn
nhau ghê quá; lại bị gió thổi hơi cay đầy mặt,
nên cố chạy đến đây để kiếm
nước rửa mặt.
- Anh nói láo! Trên cổ áo anh có 3 cục và
có gạch sói ḷi qua (lúc đó cấp bậc ở cổ áo ông
may bằng vải ngụy trang màu đen). Như vậy là
thượng sĩ chứ đâu phải trung sĩ.
- Anh đă biết tôi đâu dám dấu,
đúng tôi là thượng sĩ.
Vừa nói Đại tá Lương vừa
cổi áo và d́m trong vũng nước bùn, chỉ c̣n mặc
chiếc áo thung màu quân đội; với quần trận và
giày saut. Hai chiến sĩ Dù chỉ ngồi im không nói ǵ,
để mặc Đại tá Lương đối
đáp. Mấy tên bộ đội Cộng sản thấy
ông đeo đồng hồ và nhẫn cưới, chúng bảo
tháo ra và tự động bỏ túi; đồng thời
c̣n khám túi quần sau của anh và lấy hết 3000$ (ba ngàn
đồng).
Hai binh sĩ Dù kia, một người có
chiếc đồng hồ cũng bị lột mất!
Xong nó nói:
- Tha cho 3 anh đi về với vợ
con, nhưng mỗi người phải đi một hướng
không được đi chung, nếu đi chung tôi sẽ
bắn.
Hắn chỉ hai anh kia đi chéo về
phía làng; mỗi người phải cách nhau mấy trăm
thước; c̣n Đ/T Lương đi về phía
đường rầy xe lửa ...Mệt mỏi, anh
đi thất thểu mới được khoảng 500
thước th́ gặp 2 tên bộ đội CS khác cầm
súng từ xa vừa chạy tới vừa hô đứng lại.
Anh quay nh́n lại 3 tên lúc năy mong họ xác nhận là mới
thả, nhưng họ lẻn nhanh về phía ruộng mía...
Hai tên mới tới chĩa súng vào người bắt anh
đi... Lúc đó trong túi quần trận ở ngang đùi
c̣n 13.000$ (mười ba ngàn đồng).
Đại tá Lương nói:
- Hai anh để tôi đi về với
gia đ́nh tôi sẽ tặng 2 anh mười ngàn đồng
.
- Có mua được đồng hồ
con hải cẩu số 5 không? Hoặc đồng hồ
không người lái, 12 trụ đèn,...
Đại Tá Lương nghe chẳng hiểu
ǵ hết nhưng cứ gật đầu nói bừa:
- Với số tiền nầy mua
được hơn 2 cái đồng hồ như các anh
nói! (Sau nầy khi ở trong tù, anh mới biết: hải cẩu
5 là Seiko 5; không người lái là tự động; c̣n 12 trụ
đèn là các con số đồng hồ dạ quang về
đêm xem được!....).
Hai đứa nh́n nhau, rồi một tên
nói:
- Tôi đưa anh đến xóm nhà
đàng kia, đến đó rồi anh tự đi lấy...
chứ ở đây thả ngay anh, các đồng chí khác sẽ
thấy ... không được đâu!
Họ bảo đưa tiền, anh
đưa mỗi người 5 ngàn, c̣n lại 3 ngàn dằn
túi. Rồi anh đi trước về hướng xóm làng,
hai tên bộ đội đi theo sau. Tới bờ làng gặp
một bà lăo đang chặt củi và một thanh niên
đang cuốc đất. Lúc đó Đại tá
Lương khát khô cả cổ nên nói với bộ đội
để ông xin nước uống. Bà lăo nh́n ông, rồi
đưa dao cho cậu thanh niên và nói:
- Con chặt trái dừa cho chú lính uống
đỡ khát.
Đ/T Lương nói cám ơn, vừa
đưa trái dừa lên miệng th́ gặp 1 toán quân khoảng
20 chục người đang đi tới; anh vội nói:
- Ta đi thôi!
Bất ngờ tên chỉ huy hỏi 2 tên
bộ đội:
- Bắt được tên “Ngụy” Dù à
?
Ngay lúc đó có anh lính Địa
Phương Quân bị bắt lúc trước đang
được dẫn đi xem các xác chết coi có Đại
tá không ?
Anh ta bỗng chỉ và nói:
- Bắt được ông Đại tá
Dù rồi đó.
Hắn vừa nói vừa chỉ về
phía Đ/T Lương! Thế là chúng xúm lại trói chặt
2 tay anh và giải về Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn;
bà lăo thấy cảnh như vậy thuong xót cho ngụi chiến
binh Dù vô cùng! Hai mắt đỏ ngầu, bà nói khẽ với
cậu con trai:
- Tôi nghiệp mấy anh lính Cộng Ḥa
quá, họ suốt ngày vào sanh ra tử để bảo vệ
dân lành, ngày nay lại lâm vào cảnh đường cùng
như vầy! Thật tội nghiệp hết sức!
Sau đó họ đưa Đại tá
Lương về bộ chỉ huy Sư đoàn 968, và anh
trở thành tù binh của địch đúng 17 giờ ngày
20/4/75 !!!
* * *
Riêng
phần Thành Râu cùng toán đệ tử lần ṃ đi về
hướng biển, anh có liên lạc được với
Trung tá Lê văn Mễ, Trưởng pḥng 3, và Đại tá
Trương vĩnh Phước, Tư lệnh phó SĐND,
họ bảo anh ráng t́m cách tới bờ biển để
trực thăng bốc.
Ngày thứ 3, Thành ṃ ra tới băi biển,
chuẩn bị làm thủ tục để các trực
thăng bay ngoài biển nhận diện. Lúc đang ngồi
chờ đợi máy bay th́ thấy một toán bộ đội
đi tới; địch phát hiện trong nhà cḥi có bóng
người; vội nằm xuống bờ ruộng chĩa
súng về hướng toán quân Dù. Thành thấy chống cự
cũng vô ích, v́ những người đi theo toàn
thương binh và đạn dược đă cạn hết.
Nên đành thúc thủ để Cộng quân bắt dẫn
đi tới bộ chỉ huy của họ.
Đầu năo bộ chỉ huy quân chính
qui Bắc Việt khi nghe nói Thành là Tiểu đoàn trưởng
Nhảy dù th́ họ rất vui mừng:
- Cả mấy ngày nay, tao t́m mầy giờ
mới bắt được. Thằng ngoan cố! Giờ
c̣n để râu nữa, trói lại. Một vài tên khác có vẻ
cũng thuộc thành phần chỉ huy nhưng hiểu biết,
đă can gián:
- Không được chúng ta phải áp dụng
đúng qui chế tù binh.
Lúc đó trong đầu Thành nghĩ: “Kệ
chúng mầy, muốn bắn tao bây giờ cũng không sợ,
không thắc mắc. Luật giang hồ mà; mạnh
được yếu thua, tao bây giờ như cá nằm
trong thớt, tụi bây muốn làm ǵ th́ làm”.
Địch chuyển anh dần lên đến
trại tập trung tù binh. Trong lúc nầy, đối mặt
với địch, Thành đă chứng kiến nhiều
điều; địch cũng biết nể nang binh chủng
Nhảy Dù ở tinh thần kỷ luật. Địch cũng
có kẻ hiểu biết và cũng có đứa ác ôn. Có mấy
tên đặc công cứ đ̣i xé xác anh như con mực khô
để nhậu.
Vào trại tập trung, một tên sĩ
quan CSBV mang Thành ra khai thác tù binh, lúc ấy vào ngày 19/4/75, và
Sàig̣n vẫn chưa mất. Tên sĩ quan hỏi anh đă
thua bao nhiêu trận. Thành trả lời:
- Chỉ mới thua trận nầy lần
đầu và cũng là lần cuối!
- Nhảy Dù đánh chiến thuật nào
?
- Đánh các anh không khó. Nhảy Dù bảo
vệ mạng sống binh sĩ tối đa. Phi cơ,
pháo binh đủ loại dập nát mục tiêu tan tành, rồi
tà tà lên đếm xác.
- Anh theo tôi vào Sàig̣n giải phóng ?
- Tôi chỉ trung thành một phía.
Thành muốn trả lời ngang bướng
để anh ta nổi nóng tặng cho một viên K54. Không ngờ
hắn lại nở nụ cười nhiều ư nghĩa?
Lợi dụng nụ cười đó, Thành nói:
- Anh cho tôi ra ăn tô cháo (ba ngày nay vừa
bị thương vừa không ăn ǵ nên Thành cảm thấy
đói vô cùng!).
Anh ta cho một cận vệ đi theo
ra đầu đường ở trong thành phố Phan Rang
mua cháo. Thành gọi mua một tô, các bà thương lính VNCH
nên mút cho 1 tô kiểu “Xe lửa” để ủy lạo lần
cuối cho anh lính Cộng Ḥa! Bà bán cháo mếu máo nói :
-
Cháu dại
khai chi cấp bậc lớn để họ bắt ở
tù lâu? Tội nghiệp cháu quá!!!
Đại Úy Vơ
Trung Tín
Tiểu Đoàn Truyền
Tin SĐND – 714-545-0105
Đại Úy Nguyễn
Hữu Viên
Tiểu Đoàn 3 Nhảy
Dù – 714-897-1435
Chúng tôi rất mong
được đón nhận những ư kiến bổ
chính của các chiến hữu cho những sai sót v́ vấn
đề thời gian đă trên 30 năm và tài liệu tham
khảo hạn hẹp. Điện Thoại: 714-545-0105
email: votrungtin@hotmail.com
Vo Trung Tin &
Nguyen Huu Vien
Tài liệu Tham khảo :
- Hồi ức của Chuẩn
Tướng Phạm Ngọc Sang về Trận Phan Rang 15/1/2002 trên trang nhà Nguyệt
San Đoàn Kết.
- The
- Chiến Tranh Việt
- Những ngày cuối của VNCH (
The Final Collapse ) của Đại Tướng Cao Văn
Viên, Dịch giả Nguyễn Kỳ Phong, Vietnambibliography xuất
bản năm 2003.
-
Trận Phan Rang (Tháng 4 năm 1975) trong Đời Chiến Binh của
Thiếu tá Nhảy Dù Trương Dưỡng